Căn phòng Đào phủ bố trí cho khách đương nhiên rất thoải mái tiện nghi, nhưng Hứa Kiến Chương không hề buồn ngủ. Buổi chiều Đào phủ bỗng nhiên trở nên im ắng, anh tuy lờ mờ đoán được là xảy ra chuyện, nhưng đến tận lúc chiều tà mới nghe nói Mộ Dung Phong bị ám sát. Đây là chuyện chấn động biết bao, tuy điện báo nhắc đi nhắc lại nói rõ Mộ Dung Phong không hề bị thương, tất cả tướng lĩnh cao cấp vẫn chạy đến phủ họp, nữ giới trong Đào phủ hoảng loạn một hồi rồi cũng dần dần ra về hết. Đến tận đêm cả Đào phủ tĩnh mịch, so với sự náo nhiệt lúc ban ngày giống như hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Hứa Kiến Chương nghe nói xảy ra chuyện lớn như vậy, Tĩnh Uyển lại đang đi đến soái phủ, không biết cô an nguy ra sao, trong lòng nóng như lửa đốt, sốt ruột đến mức không biết thế nào. Có cảnh vệ ở bên cạnh, anh không tiện đi lung tung dò hỏi tin tức, người làm trong Đào phủ hỏi ai cũng không biết. Đêm nay anh làm sao ngủ nổi chứ? Kiến Chương nằm xuống giường, đang lúc sốt ruột đến cực điểm, cảnh vệ bên ngoài gõ cửa gọi: “Hứa tiên sinh, Hứa tiên sinh”.
Anh còn tưởng là Tĩnh Uyển về, trong lòng vui mừng, vội vàng đi mở cửa. Cảnh vệ đó nói: “Cậu Sáu sai người đến Hứa tiên sinh đi một chuyến”. Anh bất ngờ: “Cậu Sáu?”. Anh ngạc nhiên vô cùng, đương lúc quan trọng, sao Mộ Dung Phong lại muốn gặp kẻ chẳng liên quan là anh? Nhưng cảnh vệ đó liên tục giục giã, anh đành theo anh ta đến soái phủ.
Trời đã sắp sáng, người đi họp chợ sáng đã bắt đầu ồn ào, người gánh tào phớ rao bán đi xuyên qua con ngõ nhỏ, quang gánh rung rinh và tiếng rao bán kéo dài: “Tào phớ đây…”. Từ “đây” kéo thật dài, khiến trái tim người ta cũng đột nhiên nảy lên theo, trong lòng càng thấp thỏm hơn.
Chiếc xe của họ gào thét đi trên con phố, nó lao đi rất nhanh, không bao lâu sau đã đi vào hành dinh đốc quân canh gác nghiêm ngặt. Cảnh vệ dẫn anh xuống xe, đi thẳng vào tòa nhà gạch xanh, bên trong phòng khách đèn điện sáng trưng, có mười cận vệ mặc quân phục đứng gác, lưng đeo súng ngắn kiểu mới nhất, đứng thẳng tắp, xung quanh im lặng như tờ, yên ắng đến mức anh cảm thấy có thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập thình thịch trong lồng ngực.
Cảnh vệ dẫn anh lên lầu, sau khi đi hết cầu thang rẽ trái, đến một căn phòng vô cùng sang trọng, Hứa Kiến Chương cũng không còn tâm trạng mà ngắm kiến trúc xung quanh, chỉ nghe cảnh vệ nói: “Mời Hứa tiên sinh đợi ở đây một lát” rồi lui ra ngoài.
Trong lòng Hứa Kiến Chương thấp thỏm không yên, chỉ cảm thấy sự đợi chờ này như đã kéo dài cả thế kỷ, bên ngoài trời đã sáng hẳn, nghe thấy tiếng chim hót trên cành cây, trong lòng anh có vô số nghi hoặc, lúc thì nghĩ đến Tĩnh Uyển, lúc thì lại nghĩ sao Mộ Dung Phong muốn gặp mình, suy nghĩ rối tung không biết phải gỡ từ đâu. Rất lâu sua, cuố cùng nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu lại nhìn, người dẫn đầu tuổi khoảng trên dưới ba mươu, trong lòng anh vẫn đang dắn đó, đối phương đã hỏi: “Hứa tiên sinh phải không?”. Anh gật đầu, người đó nói: “Tôi là Thẩm Gia Binh, đội trưởng đội cảnh vệ của Cậu Sáu, chuyện tối qua chắc Hừa tiên sinh cũng có nghe nói đến, mong Hứa tiên sinh đừng thấy lạ”. Nói xong Thẩm Gia Bình ngẩng mặt lên, hai cảnh vệ đằng sau liền lên trước cẩn thận lục soát người Kiến Chương một lượt, không phát hiện thấy vũ khí, mới gật đầu ra hiệu cho Thẩm Gia Bình.
Thẩm Gia Bình nói: “Mời Hứa tiên sinh theo tôi” và quay người đi ra ngoài, Hứa Kiên Chương theo sau, cuối cùng không kìm được hỏi: “Doãn tiểu thư bạn tôi còn ở trong phủ không?”. Thẩm Gia Bình không hề dừng bước, cũng không quay mặt lại, chỉ nói: “Hứa tiên sinh, Doãn tiểu thư muốn gặp anh, cô ấy bị thương rất nặng”. Hứa Kiến Chương nghe thấy câu này, giống như sét đánh ngang tai, bất giác đứng sững, định thần lại mới phát hiện đã tụt lại phía sau mấy bước, liền vội vàng đuổi theo Thẩm Gia Bình.
Lần này Thẩm Gia Bình dẫn anh vào một căn phòng kiểu Tây, Hứa Kiến Chương chỉ thấy căn phòng nguy nga lộng lẫy, trang hoàng tráng lệ, bên ngoài bên trong đều có người hầu khoanh tay đứng chầu, bốn bề tĩnh mịch, tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ treo tường cũng có thể nghe thấy rõ mồn một. Thẩm Gia Bình đích thân mở cửa, bên trong chỉ bật một chiếc đèn ngủ nho nhỏ, ánh sáng mờ mờ, ấm áp, lúc này Hứa Kiến Chương bỗng cảm thấy sợ hãi, sự ám ảnh trong lòng càng ngày càng rõ, càng ngày càng lan rộng. Thảm dưới chân dày ba, bốn phân, giẫm lên không phát ra tiếng động, tựa như bước trên gấm lụa, mềm mại không có chút sức lực, anh chỉ thấy bước chân khó khăn, trái tim cũng giống như treo giữa không trung. Anh nhìn thấy một chiếc giường kiểu Tây lớn và sang trong, đầu giường khắc hoa mạ vàng, một chiếc màn kiểu Tây buông xuống, chiếc màn đó màu trắng, gần như trong suốt, bay nhẹ như mây, buông xuống vô số tua màu vàng, lả lướt bao vây lấy chiếc giường. Chiếc chăn bông trên giường đang ôm lấy một thân hình nhỏ bé. Trái tim anh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh thất thanh gọi: “Tĩnh Uyển”.
Sắc mặt cô nhợt nhạt, trắng bệch như giấy, anh sững sờ nhìn cô thở yếu ớt. Y tá bên cạnh vội dùng tay ra hiệu cho anh, tim anh như có dao cứa, hồn xiêu phách lạc, có người đưa cho anh một chiếc ghế, anh cũng không buồn ngồi xuống. Ánh mắt anh chăm chú nhìn vào mặt cô. Anh hỏi y tá: “Vết thương của cô ấy thế nào?” . Y tá đáp: “Rất nghiêm trọng”. Anh hỏi: “Làm sao lại bị thương?” . Y tá cứ úp úp mở mở không đáp, Thẩm Gia Bình cười một tiếng, nói: “Hứa tiên sinh, có một số chuyện anh đừng hỏi quá nhiều thì hơn”. Anh kinh ngạc, trong lòng lo sợ, cả một bụng nghi vấn đành nén xuống.
Anh cũng không biết đã quá bao lâu, chiếc rèm nhung treo trên cửa sổ nặng nề rủ xuống, chút ánh sáng nhàn nhạt bên ngoài lách vào, lờ mờ như ánh hoàng hôn. Còn Tĩnh Uyển nằm ở đó, tựa một đứa trẻ đang ngủ, vô trí vô giác. Hứa Kiến Chương ngồi đó, cơ thể dần dần tê đi, nhưng trong đầu trống rỗng. Căn phòng ngủ này rất rộng, trên chiếc giá bằng gỗ đàn hương ở phía đông treo một thanh đao cong rất dài, trên chiếc bao da của đao có khảm đá quý, phía dưới khâu tua màu ngà, rất đẹp, rõ ràng là một thanh đao nổi tiếng. Trên giá còn đặt hai thanh bảo kiếm, dài ngắn khác nhau. Trên chiếc tủ thấp cạnh đó có đặt một vài bao xì gà, thuốc lá. Ánh mắt đờ đẫn của anh dừng lại trên tủ quần áo trước giường, bên trên có treo một bộ quân phục của nam giới, một chiếc thắt lưng da vứt tùy ý dưới giá quần áo, trên thắt lưng còn có một bao súng da để trống. Hứa Kiến Chương nhìn thấy bộ quần áo đó tuy là quân phục bình thường, nhưng trên vai rủ xuống tua màu vàng, người mặc bộ quân phục này, không ai khác ngoài Mộ Dung Phong.
Người hầu đến mời anh đi cơm, dạ dày anh như nhét đầy đá, nặng trình trịch, đâu có muốn ăn, nên anh chỉ lắc đầu. Trong phòng vô cùng yên ắng, chỉ có tiếng Tĩnh Uyển thỉnh thoảng rên nhẹ, y tá đi đi lại lại, đo nhiệt độ, đo huyết áp, tiêm, lau mồ hôi cho cô. Anh ngồi ở đó, chỉ mong Tĩnh Uyển mau tỉnh lại, nhưng trong tận đáy tim đang dấy lên một sự bất an, dường như đang sợ hãi một thứ gì đó. Người hầu lại đến mời anh ăn tối, ngày hôm nay không ngờ lại trôi đi nhanh như thế, nhưng cũng trôi đi chậm như thế.
Có tiếng bước chân nhẹ vang lên bên ngoài, chỉ nghe thấy một giọng phụ nữ dịu dàng: “Doãn tiểu thư sao rồi?”. Một bà vú già bên ngoài đáp: “Vẫn chưa tỉnh ạ”. Tiếp theo cửa mở ra, anh quay lại nhìn, chỉ thấy một quý phu nhận sang trọng , khoảng ba mươi tuổi. Lan Cầm vội nói với quý phu nhân đó: “Đây là Hứa thiếu gia, anh họ của Doãn tiểu thư”. Rồi cô lại quay sang nói với anh: “Đây là tứ phu nhân của chúng tôi”.
Anh từng nghe nói đến đại danh của vị tứ phu nhân này, biết bà là vị phu nhân được sủng ái nhất là Mộ Dung Thần còn sống, Mộ Dung Phong chưa kết hôn, nghe nói mọi việc trong Mộ Dung phủ đều do bà làm chủ, do đó vội đứng dậy rất khách sáo, gọi một tiếng “Tứ phu nhân”. Tứ phu nhân vốn theo Mộ Dung Thần đến rất nhiều nơi, tuy là phụ nữ kiểu cũ, nhưng thoải mái phóng khoáng, đưa tay ra bắt tay Hứa Kiến Chương, nói: “ Hứa thiếu gia, hân hạnh”. Bà lại nói: “Tĩnh Uyển xảy ra việc như vậy, thật khiến người ta đau lòng”.
Trong lòng Hứa Kiến Chương đang lo âu, nghe tứ phu nhân nói thế, càng đau lòng, buồn phiền hơn. Tứ phu nhân an ủi anh: “Ở hiền gặp lành, biểu thiếu gia (*) cũng đừng quá lo lắng”; rồi lại hỏi: “Biểu thiếu gia vẫn chưa ăn cơm phải không?”. Dứt lời, bà gọi một người hầu vào sai bảo: “Giờ mấy người ngày càng không có quy tắc, khách ở đây, sao không mời đến phía sau ăn cơm?”.
(*) Biểu thiếu gia nghĩa là anh, em họ đằng ngoại, ý coi như Doãn Tĩnh Uyển sẽ lấy Mộ Dung Phong, nên Hứa Kiến Chương thuộc về họ đằng ngoại của Mộ Dung Gia (BTV)
Hứa Kiến Chương vội nói: “Họ đã mời tôi mấy lần rồi, tôi không muốn ăn nên mới không đi. Hơn nữa đã rất làm phiền quý phủ rồi”. Tứ phu nhân mỉm cười, nói: “Biểu thiếu gia đâu phải người ngoài, sao lại khách sáo thế? Cậu Sáu nhà chúng tôi hai ngày nay bận quá, cho nên không tranh thủ được thời gian, mong biểu thiếu gia đừng lấy làm lạ. Biểu thiếu gia cứ coi đây như nhà mình đi, có việc gì chỉ cần dăn dò bọn họ là được”.
Bà một mực gọi biểu thiếu gia, nỗi nghi hoặc trong lòng Hứa Kiến Chương như bọt xà phòng trào lên đến đỉnh điểm, động nhẹ là có thể vỡ tung. Tứ phu nhân lại nói: “Cơm thì vẫn phải ăn, nếu Tĩnh Uyển tỉnh dậy, chắc chắn sẽ không muốn thấy biểu thiếu gia đói bụng”. Bà mới đi mời lại, Hứa Kiến Chương không thể không nể mặt, đành đứng dậy đi ăn cơm.
Anh ăn không ngon, nhưng người làm trong Mộ Dung phủ hầu hạ vẫn rất ân cần, sau bữa cơm là tráng miệng kiểu Tây, vừa có đồ ngọt, vừa có cà phê, anh ăn không nổi, nhấp hai ngụm cà phê liền lập tức quay về thăm Tĩnh Uyển. Anh thấy xung quanh đã sáng lên, đi về căn nhà đó, đèn trên hành lang đều đã bật sáng trưng, Thẩm Gia Bình đứng ngoài hành lang, thấy anh thì hơi sững lại, Hứa Kiến Chương cũng không để ý, Thẩm Gia Bình liền lên trước gõ cửa nói: “Cậu Sáu, Hứa thiếu gia quay lại rồi”. Lúc này cửa mới mở.
Mộ Dung Phong đang nói chuyện với một vị bác sĩ người nước ngoài trước cửa sổ nghe vậy mới quay đầu lại. Hứa Kiến Chương tuy đến Thừa Châu nhiều lần nhưng chưa từng gặp Mộ Dung Phong, lúc này bỗng nhiên gặp mặt, trong lòng kinh ngạc, chỉ thấy so với trên ảnh, anh ta sắc mặt hơi tối, đường nét tuấn tú, biểu cảm ung dung tự tại, quả thật là thiếu niên lão luyện sớm.
Anh đành chào một tiếng: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong gật đầu hờ hững, lại quay mặt đi dùng tiếng Nga nói chuyện với vị bác sĩ nước ngoài, vị bác sĩ đó cũng dùng tiếng Nga trả lời, một lát sau bác sĩ đó lại cùng Mộ Dung Phong đến trước giường, thảo luận nhỏ với anh ta. Hứa Kiến Chương đoán họ đang nói về vết thương của Tĩnh Uyển, có điều một câu anh cũng không hiểu, chẳng khác nào người thừa.
Ngày hôm sau Tĩnh Uyển vẫn chưa tỉnh, cứ ngủ mê man. Tứ phu nhân ngày nào cũng đến hai lần, xem vết thương của Tĩnh Uyển rồi lại an ủi Hứa Kiên Chương vài câu. Tối hôm đó sau khi đến, bà còn tiện tay lấy một chiếc hộp trên tay nha hoàn, đưa cho Hứa Kiến Chương nói: “Hai ngày nay có mấy vị phu nhân đến thăm, nhưng bác sĩ đã dặn Doãn tiểu thư cần yên tĩnh, cho nên tôi đều từ chối hết, mấy đồ này là người ta tặng Doãn tiểu thư, anh nhận giúp cô ấy đi”.
Sau khi Tứ phu nhân đi rồi, Hứa Kiên Chương mở ra xem, không ngờ là một danh mục quà tặng, đa phần là những vị thuốc quý hiếm, toàn là nhung hươu, hổ cốt, mật gấu, sâm Cao Ly trăm năm, còn có người tặng đồ ngọc sư tử, có người tặng đồ cổ trang sức, muôn hình muôn vẻ, không thiếu thứ gì. Lạc khoản phía dưới, đều đề tên nữ gia quyến của các nhân vật quan trọng trong Thừa quân. Anh nắm tờ danh mục ấy giống như nắm một cục than đang cháy, sự đau đớn từ lòng bàn tay chảy thẳng vào tận tim.
Khi Tĩnh Uyển dần dần tỉnh lại, đã là ba ngày sau. Vết thương đau đớn, nhưng người đã tỉnh táo, cô vừa mở mắt ra, Lan Cầm đã vui mừng hét lên: “Tiểu thư tỉnh rồi, tiểu thư tỉnh rồi”. Bác sĩ y tá đều tập trung lại, ánh mắt cô lướt qua mọi người, tìm kiếm mà không thấy Hứa Kiến Chương đâu. Đã có người đi báo cáo với Mộ Dung Phong, anh vốn họp thâu đếm, lúc này đang ngủ, vừa nghe thông báo, anh không kịp thay quần áo, khoác vội chiếc áo khoác rồi đến. Thấy cô tỉnh lại, anh không kỉm được nở nụ cười, buột miệng nói: “Cuối cùng em đã tỉnh rồi”. Lan Cầm đứng bên cạnh cũng cười: “Giờ thì tốt rồi, cuối cùng tiểu thư đã tỉnh. Cậu Sáu vô cùng lo lắng, cứ một lát lại đến thăm tiểu thư”. Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh tiều tụy, anh mắt tràn ngập sự thương yêu, trong lòng cảm kích hỏi: “Cậu Sáu…”.
Mộ Dung Phong hiểu ý, nói: “Sự việc cơ bản đã ổn định lại rồi”. Anh khẽ nắm tay cô nói: “Tĩnh Uyển, may mà em không sao, nếu không thì cả đời này anh cũng không sống vui vẻ được”. Cô gượng cười hỏi: “Hai ngày nay em mơ mơ hồ hồ, hình như cảm thấy Kiến Chương ở đây, sao giờ không nhìn thấy anh ấy?”
Mộ Dung Phong nói: “Anh sai người đi mời Hứa thiếu gia đến cho em, quả thật anh ta luôn ở đây. Nhưng vừa đúng trưa nay sư đoàn trưởng Từ mời ăn cơm, cho nên anh ta ra ngoài rồi”. Tĩnh Uyển nghe vậy, cảm thấy hơi thất vọng.
Hứa Kiến Chương mấy ngày nay không có tâm trạng ăn uống, hôm nay cũng vẫn ăn không ngon. Sư đoàn trưởng Từ đãi khách ở nhà, đương nhiên là một bàn sơn hào hải vị, cao lương mỹ vị. Sư đoàn trưởng Từ đó có quan hệ thân thiết với Hứa Kiến Chương, nữ giới trong nha cũng không hề tránh đi. Từ phu nhân vốn hay nói hay cười, vừa gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương vừa cười nói: “Hứa thiếu gia tuy chịu khổ mấy ngày trong nhà lao, nhưng nguy hiểm đã qua, hôm nay làm bữa cơm gia đình, coi như an ủi thiếu gia”.
Hứa Kiến Chương ăn không nổi, sư đoàn trưởng Từ hỏi: “Vết thương của Doãn tiểu thư hông biết hiện giờ còn nghiêm trọng không?”. Hứa Kiến Chương than một tiếng, nói: “Mấy vị bác sĩ người nước ngoài thay phiên nhau trong nom nhưng không khởi sắc mấy”. Từ phu nhân cười nói: “Doãn tiểu thư phúc trí song toàn, nhất định có thể chuyện dữ hóa lành, hơn nữa có lệnh của Cậu Sáu, nói chữa không khỏi cho Doãn tiểu thư sẽ hỏi tội mấy bác sĩ đó, họ dám không cố hết sức sao?”. Sư đoàn trưởng Từ nghe bà ta nói không đâu vào đâu, vội ngắt lời: “Uống rượu, uống rượu” rồi đích thân cầm chai rượu rót cho Hứa Kiến Chương một ly.
Hứa Kiến Chương chầm chậm một ly rượu Tây bỏng rát đó, những lời muốn nói cuối cùng không nhịn được nữa: “Sư đoàn trưởng Từ, chúng ta là bạn bè, hôm nay ông nói thật với tôi một câu, Cậu Sáu đối với Tĩnh Uyển… với Tĩnh Uyển…”. Kiến Chương nhắc hai lần, nhưng vế sau vẫn không thể nói ra được.
Sư đoàn trưởng Từ nói với Từ phu nhân: “Bà bảo người đem bình rượu cao lương lần trước người ta tặng đến đây”. Từ phu nhân vâng lời rồi đi, Hứa Kiến Chương thấy ông đuổi khéo Từ phu nhân, trong lòng càng bất an hơn, cứ đờ đẫn nhìn ông. Sư đoàn trưởng Từ lại rót cho anh một ly đầy, tiếp đó than một tiếng thật dài, nói: “Chắc cậu cũng thấy rồi, Cậu Sáu rất ái mộ Doãn tiểu thư, tôi khuyên cậu một câu, đại trương phu nên lo sự nghiệp, thức thời mới là tuấn kiệt”.
Sự lo lắng mấy ngày nay của Hứa Kiến Chương cuối cũng đã được chứng thực, trái tim rơi xuống thẳng, cứ rơi cứ rơi, giống như không đáy không bờ, toát ra sự lạnh lẽo từ tận xương cốt. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Những lời này tôi vốn không nên nói, nói ra cũng nên vả vào miệng, nhưng tôi và cậu giao hảo nhiều năm, tôi không nói cho cậu biết cũng thấy khó chịu. Doãn tiểu thư quả thật là hào kiệt trong nữ giới, kỳ nữ hiếm thấy, chỉ riêng chuyện gan dạ một mình đến Thừa Châu cứu cậu, tôi đã muốn giơ ngón cái ra khen một câu “Giỏi”. Cậu Sáu thích cô ấy cũng là lẽ thường tình. Tôi là người ngoài, nói cậu đừng giận, theo tôi thấy, Doãn tiểu thư đối với Cậu Sáu cũng chưa chắc là không có ý gì đâu”.
Hứa Kiến Chương buột miệng nói: “Tĩnh Uyển không thể nào”.
Sư đoàn trưởng Từ lại than một tiếng: “Có hay không tôi không biết, nhưng trên dưới Thừa quân, ai ai cũng biết cô ấy là bạn gái của Cậu Sáu, cô ấy không tránh dị nghĩ, luôn có cử chỉ thân mật với Cậu Sáu. Doãn tiểu thư ở trong phủ Tam tiểu thư, chỉ cách đại soái phủ có một con phố”. Giọng nói ông ta ép xuống rất nhỏ: “Có lần vì chuyện quân quan trọng, tôi đi tìm Cậu Sáu suốt đêm, Thẩm Gia Bình ấp a ấp úng nói không rõ Cậu Sáu đi đâu, bảo tôi đợi ở phòng khách hơn nửa tiếng, mãi mới thấy Cậu Sáu từ phía sau về. Sau này tôi mời khách ở Tiểu Dương Xuân, mươn rượu dò hỏi Thẩm Gia Bình chuyện đó, Trương Nghĩa Giả thư ký của Cậu Sáu cũng uống khá nhiều rồi, mặt mày hớn hở giả vờ văn vẻ với tôi, nói cái gì mà “Đương quan bất báo xâm thần khách, tân đắc gia nhân tự Mạc Sầu” (*). Tôi là người thô lỗ nghe không hiểu, đảm thư ký đó đều cười ầm ầm lên, Thẩm Gia Bình bấy giờ mới nói, Doãn tiểu thư không giống người khác, mấy người nói linh tinh ở đây, Cậu Sáu mà biết được, lại không bạt tai mấy người ấy chứ”.
(*) Trích trong bài thơi Đường Bình thiếu hầu của nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường. Hai câu thơ này, đại ý nói, người giữ cửa không dám thông báo với Đường Bình thiếu hầu là có người khách đến vào sáng sớm, vì thiếu hầu mới có được một mỹ nhân tên là Mạc Sầu, câu nói hàm ý châm biếm thiếu hầu đắm chìm trong nữ sắc, lơ là chính sự quốc gia.
Trong lòng Hứa Kiến Chương rối như tơ vò, nghĩ đến những manh mối mấy ngày ngày vừa rồi, tim như bị dao cứa, nắm tay thật chặt, lúc lâu sau rít qua kẽ răng: “Tĩnh Uyển không phải người như vậy, tôi tin cô ấy không thế”.
Sư đoàn trưởng Từ “ôi” một tiếng nói: “ Tôi thấy Doãn tiểu thư cũng không phải là người tham vinh hoa phú quý, chỉ là Cậu Sáu tuổi trẻ anh hùng, không kể đến địa vị thì cũng là một nhân tài, phàm là phụ nữ, làm gì có ai không xem trọng cậu ấy? Hai người họ bên cạnh nhau lâu như vậy, cũng sẽ nảy sinh tình cảm”.
Hứa Kiến Chương trong tim rối bời, chầm chậm uống rượu. Sư đoàn trưởng Từ lại nói: “Lão đệ, tôi coi cậu như anh em ruột mới nói nhiều như thế. Cho dù cậu không nghĩ cho bản thân mình thì cũng phải lo cho gia đình, nếu gây chuyện với người đó, sau này việc kinh doanh của cậu sẽ làm thế nào? Tính khí ngài ấy chắc cậu cũng ít nhiều nghe nói đến, thật sự muốn lật mặt, đừng nói việc kinh doanh sau này, chỉ sợ khắp chín tỉnh phía Bắc ngay cả đất dung thân cậu cũng không có. Cậu còn mẹ già em nhỏ, cậu xảy ra chuyện họ còn có thể hy vọng vào ai? Bên nào nặng bên nào nhẹ, cậu tự cân nhắc đi”.
Chương 12
Sau khi bị thương, cơ thể Tĩnh Uyển rất yếu, cô chỉ nói hai câu đã thấy mệt mỏi, lại tiếp tục ngủ mê man. Lúc tỉnh dậy trời đã sắp sáng, qua những kẽ hở của rèm cửa những tia sáng màu than chì lách vào trong phòng, xung quanh vẫn im lặng, Mộ Dung Phong ngồi trên chiếc ghế trước giường, ngửa mặt ngủ, vì tư thế không thoải mái nên anh ngủ mà vẫn chau mày. Trên người anh đắp một chiếc chăn nhung, có thể là do cảnh vệ đắp lên giúp anh sau khi ngủ, vì anh vẫn mặc bộ Âu phục hồi tối.
Gió sớm thổi tung rèm cửa, mái tóc rối của anh rủ trên trán, bị gió thổi nên hơi lay động, làm giảm bớt khí chất áp đảo người khác trên khuôn mặt của anh, tạo nên vẻ bình yên, tuấn tú của những thanh niên trẻ tuổi bình thường, thậm chí lộ ra chút khí chất trầm tĩnh, chỉ là môi anh rất mỏng, trong mơ vẫn mím chặt, hiện rõ những đường nét cương nghị.
Cô thẫn thờ một lát, hơi động đậy, chạm vào vết thương, không kìm được liền “ối” một tiếng. Âm thanh tuy rất khẽ nhưng Mộ Dung Phong đã tỉnh dậy, anh lật chăn, đứng dậy hỏi: “Sao thế?”. Cô thấy vẻ mặt anh dịu dàng quan tâm, mắt hơi vằn đỏ, liền biết mấy ngày nay công việc bận rộn, nhưng tối qua lại thức cả đêm ở đây, không khỏi hơi cảm động, nói nhỏ: “Không sao?. Anh ngáp một cái, nói: “Trời cũng sắp sáng rồi, tối qua chỉ nói ở đây một lát, ai ngờ lại ngủ mất”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu về nghĩ ngơi trước đi”. Mộ Dung Phong đáp: “Dù sao lát nữa sẽ phải làm việc rồi”. Anh nhìn cô, mỉm cười nói tiếp: “Anh ở lại với em thêm một lúc”. Tĩnh Uyển hơi bất ngờ, nhìn tránh đi theo bản năng, mỉm cười hỏi: “ Đại ca, Kiến Chương về chưa?”. Mộ Dung Phong liền gọi người vào hỏi, người hầu đó nói: “Hứa thiếu gia tối qua uống say, sư đoàn trưởng Từ sai người đưa cậu ấy về. Bây giờ vẫn đang nghỉ ngơi trong phòng khách”.
Tĩnh Uyển nghe vậy, trong lòng hơi bực. Mộ Dung Phong nói: “Cậu ta chắc là lo lắng cho vết thương của em, nên mới uống rượu, khó tránh khỏi bị say”. Tĩnh Uyển “ồ” một tiếng, Mộ Dung Phong lại nói: “Bác sĩ nói em có thể ăn được rồi, nhưng phải ăn thức ăn lỏng, muốn ăn gì anh bảo họ chuẩn bị”. Tĩnh Uyển tuy không muốn ăn, nhưng thấy anh chăm chú nhìn mình, lại không nỡ trái ý anh, thuận miệng nói: “Ăn cháo là được rồi”.
Nhà bếp làm việc rất nhanh chóng, một lát sau đã mang lên một bát cháo trắng nóng hổi, kèm theo đĩa nhỏ với sáu loại dưa góp Cẩm Châu, cháo thơm dịu, dưa muối tươi mặn. Mộ Dung Phong cười nói: “Anh cũng đói rồi”. Lan Cầm đang múc cháo cho Tĩnh Uyển, nghe thấy vậy, lập tức vội vàng múc cho anh một bát. Người hầu trong nhà trên hỏi: “Cậu Sáu rửa mặt ở đây chứ?”. Mộ Dung Phong liền “ừ” một tiếng, đến phòng vệ sinh rửa mặt đánh răng, đây vốn là phòng ngủ của anh, trong phòng vệ sinh khăn mặt, bàn chải vẫn đầy đủ.
Sau khi bị thương Tĩnh Uyển đi lại không tiện, Lan Cầm cùng một a hoàn khác tên là Tú Vân, một người cầm chậu, một người cầm khăn đang giúp cô rửa mặt, bỗng nghe người bên ngoài nói: “Chào Hứa thiếu gia. Doãn tiểu thư mới tỉnh lại đó” Tĩnh Uyển nghe thấy Kiến Chương đến, đang định cất tiếng hỏi chuyện thì Mộ Dung Phong đã hỏi ở trong phòng vệ sinh: “Tĩnh Uyển, là ai đến thế? Nếu là Gia Bình, thì bảo cậu ta đợi ở bên ngoài”.
Hứa Kiến Chương vừa đi vào phòng, đã nghe thấy giọng nói của anh, sắc mặt liền hơi thay đổi. Tĩnh Uyển thấy tình thế khó xử, vội nói: “Đại ca, là Kiến Chương đến”.
Mộ Dung Phong đi ra, vừa cài khuy áo vừa gật gật đầu với Kiến Chương, coi như chào hỏi, lại quay mặt lại nói với Tĩnh Uyển: “Đã bảy giờ, xem ra không thể ăn sáng với em được rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Đại ca cứ tự nhiên”. Cô cảm thấy bầu không khí ngượng ngập, khó tránh khỏi đặc biệt chú ý sắc mặt của Hứa Kiến Chương, thấy vẻ mặt anh rất gượng gạo, dáng vẻ như không thoải mái.
Sau khi Mộ Dung Phong đi, Tĩnh Uyển ăn mấy thìa cháo, tinh thần đã hơi kém, Lan Cầm thu dọn rồi ra ngoài, Tĩnh Uyển nhìn Hứa Kiến Chương, thấy anh cũng chăm chú nhìn mình, cô nói: “Anh đừng hiểu lầm, em và Cậu Sáu kết nghĩa anh em”, Tĩnh Uyển thấy giọng điệu anh gượng gạo, lại thấy vẻ mặt anh mệt mỏi, trong lòng cũng không biết là tức giận hay thương yêu, nói như thế giận dỗi: “Có gì anh cứ nói thẳng đi, dù sao em tự biết mình không hề làm bất cứ việc gì có lỗi với anh”.
Khóe miệng Hứa Kiến Chương hơi run run, sắc mặt khó coi đến cực điểm, mắt lại nhìn về nơi khác, rất lâu sau mới nói: “Tĩnh Uyển, anh phải về Càn Bình rồi”.
Tĩnh Uyển thấy trái tim bỗng nhiên chùng xuống, sau khi bị thương cô mất rất nhiều máu, sắc mặt đã không hồng hào, giờ lại càng nhợt nhat: “Tại sao?”.
Hứa Kiến Chương hờ hững đáp: “Anh chưa đi là vì không yên tâm về em, sau này nghe nói em bị thương, anh càng không thể bỏ lại em. Bây giờ xem ra em ở đây mọi thứ đều ổn, cho nên anh định về nhà trước xem sao”.
Tĩnh Uyển vừa tức giận vừa sốt ruột vừa bực mình, hỏi lại: “Chắc chắn anh nghe thấy gì đó, cho nên nghi ngờ em phải không? Chẳng lẽ em là người như thế sao?”. Cô liền kể hết tình hình sau khi mình đến Thừa Châu, cũng giải qua chuyện của hai người Từ, Thường, cuối cùng nói: “Em vì cứu anh, mới đồng ý cùng Cậu Sáu diễn kịch trước mọi người, giữa em và anh ấy là hoàn toàn trong sáng, tin hay không tùy anh”.
Hứa Kiến Chương nghe cô nói rõ ngọn nguồn, nghe thấy cô vì cứu mình nên không tiếc thanh danh của bản thân, miệng hơi mấp máy giống như muốn nói, cuối cũng kìm lại. Anh đã suy nghĩ trăm nghìn lần, nghĩ đi nghĩ lại, tuy sớm đã hiểu rõ quan hệ lợi hại, biết rõ không thể không cắt đứt, nhưng thấy đôi mắt ngân ngấn như nước hồ thu của cô đang nhìn mình, gần như sắp dao động. Trong đầu anh dường như có một bộ phim đang chạy, lúc thì nghĩ đến ngày tháng cùng cô ở Càn Binh, lúc nghĩ đến em nhỏ mẹ già ở nhà, trong trách không thể chối bỏ trên vai mình, lúc thì nghĩ đến ngày tháng trong tù, thân ở trong ngục, không còn đường đi, sự khủng khiếp đó khiến người ta run sợ. Anh nghĩ đến những lời của sư đoàn trưởng Từ, bên nào nặng bên nào nhẹ… bên nào nặng bên nào nhẹ…
Anh nghĩ đến cha lúc trước khi qua đời, nắm chặt lấy tay anh không buông, thều thào không nói ra nổi, chỉ chỉ mấy em trai em gái đứng trước giường. Mẹ và các em đã mất đi cha, trong nhà không thể không có anh. Nếu anh không màng tất cả, sau này có mặt mũi nào gặp người cha đã mất ở dưới suối vàng đây?
Anh cắn răng, cuối cùng hạ quyết tâm: “Tĩnh Uyển, Hứa gia là gia đình kiểu cũ, anh không thể khiến mẹ anh đau lòng. Chín tỉnh phía Bắc này không ai không biết quan hệ của em và Cậu Sáu. Hứa gia quả thật không thể có lỗi với người này. Tĩnh Uyển, tuy em không phụ anh, anh cũng đành phụ em thôi”.
Tĩnh Uyển nghe xong câu đó, lòng giống như bị đâm một nhát, cảm giác tức giận phẫn nộ ấy không thể nói thành lời, chân tay cô lạnh ngắt, trong đầu đau nhức, ngay cả hít vào thở ra cũng đau không chịu nỗi. Cũng không biết là vết thương đau hay là tim đau, cô thở một hơi hết sức nặng nề, chậm chạp, ngay cả giọng nói cũng trở nên run rẩy: “Hứa Kiến Chương, sao anh có thể đối xử với em như thế?”. Hứa Kiến Chương không nói gì, trước mắt cô nhòa đi, không nhìn rõ được dáng vẻ anh, giọng cô cũng dường như không phải của mình: “Anh vì điều đó mà không cần em nữa?”.
Kiến Chương mím chặt môi, dường như chỉ sợ hễ mở miệng là nói ra câu gì đó. Sắc mặt cô nhợt nhạt, cô nhìn anh chằm chằm: “Anh là người được dạy dỗ kiểu mới, thời đại này anh vẫn lấy lý do đó để đối đãi với em sao?”. Trong lòng Kiến Chương buồn phiền vạn phần, cuối cùng buột miệng nói: “Không sai, anh quả thật vong ân bội nghĩa, nhưng em có từng nghĩ cho anh không? Em không tiếc danh phận của mình để cứu anh nhưng anh không gánh nổi đại ân đó của em”. Lời vừa nói ra, dường như anh mới hiểu mình đang nói gì, chỉ thấy cô tuyệt vọng nhìn mình, mặt anh tái mét, lại mím chặt môi, không nói một tiếng nào. Khóe miệng cô run rẩy, cuối cùng dần dần cong lên, nở một nụ cười thê lương: “Được, được, không ngờ tôi nhìn nhầm con người anh”. Cô vừa thở liền bị sặc, không kìm được bật ho, lập tức động đến vết thương đau buốt, không thể thở nổi. Lan Cầm đi vào, thấy cô toát mồ hôi lạnh, bị sặc đến mức mặt đỏ lên, liền cuống quýt đỡ cô, cô đã không nói nổi, Lan Cầm hét ầm lên: “Người đâu”, Hứa Kiến Chương lùi sau một bước, trong lòng rối như tơ vò, muốn đến gần xem, nhưng bước đi đó còn nặng hơn ngàn cân, không làm sao nhấc chân nổi, cuối cùng vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Bác sĩ tiêm một mũi giảm đau cho cô, cô mơ hồ ngủ thiếp đi, lòng đau tột độ, láng máng nghe thấy tiếng của Mộ Dung Phong rít lên đầy tức giận: “Tên họ Hứa đâu? Rốt cuộc hắn đã nói gì?” . Sau đó hình như là giọng của Lan Cầm, lí nhí trả lời gì đó, Tĩnh Uyển không nghe rõ, chỉ thấy trong tim buồn đến cực điểm, như có thứ gì tắc nghẹn ở đó, không thể thở nỗi. Mộ Dung Phong nhận ra cô đã tỉnh lại, lập tức cúi người xuống gọi nhỏ cô một tiếng: “Tĩnh Uyển”.
Tim cô như bị dao đâm, cô ngẩng mặt lên để nước mắt không bị chảy xuống. Anh nói: “Em đừng khóc, em sai người đi tìm Hứa Kiến Chương đến ngay”. Cô vốn đã rất kìm chế, nghe anh nói câu này, nước mắt cứ thế trào ra, cô đã hết sức ngăn dòng nước mắt lại, cô chưa từng yếu đuối như thế này, cô không thể nhớ lại lời nói của anh, không thể nhớ lại dáng vẻ của anh, không ngờ anh lại đối xử với cô như thế, không ngờ anh lại bỏ rơi cô như thế.
Cô đã vì anh như thế, vì anh ngay cả tính mạng cũng suýt mất đi, con gái quan trọng nhất là danh tiết cô cũng không để ý, nhưng anh lại vì lời đồn thổi của người đời mà không cần cô nữa. Nước mắt ngân ngấn trên khóe mi, cuối cũng lã chã chảy xuống, Mộ Dung Phong chưa từng thấy cô khóc, liền luôn miệng nói: “Em đừng khóc, em đừng như thế, anh lập tức sai người đi tìm”.
Cô nấc nghẹn lắc đầu, cô không cần gì nữa, thứ cô cần bây giờ đều không có ý nghĩa, đều trở thành trò cười. Cô đưa tay lên lau nước mắt, cô không muốn khóc, không thể khóc. Sự cố chấp mấy năm nay vốn cho rằng là không thể lung lay, không ngờ đẩy nhẹ một cái, cả thế giới đã lật đổ. Cô kiên cường như thế, đến cuối cùng lại rơi vào tình cảnh này. Cô vốn cho rằng bản thân mình không gì không thể làm được, đến bây giờ lại bị người thân thiết nhất giáng cho một đòn chí mạng. Thẩm Gia Bình đi vào, thì thầm một câu với Mộ Dung Phong, anh phẫn nộ quát: “Lên tàu rồi cũng đuổi theo cho tôi”.
Trong lòng cô vô cùng đau đớn, theo bản năng cô đưa tay ra nắm lấy gấu áo anh, giống như nắm lấy khúc gỗ trôi nổi duy nhất. Mộ Dung Phong thấy khóe miệng cô run run, dáng vẻ ngơ ngẩn tội nghiệp như đứa trẻ thơ, anh chưa từng thấy dáng vẻ này của cô, trong lòng thương xót, nắm lấy tay cô : “Tĩnh Uyển …”. Cô không muốn nghĩ gì nữa, anh nói: “Nếu em muốn hắn quay lại, bằng mọi cách anh sẽ tìm hắn cho em”. Tim cô đau nhói, nghĩ đến lời Kiến Chương từng nói, từng chữ đều như dao sắc, đâm sâu vào lục phủ ngũ tạng. Mộ Dung Phong nắm chặt lấy tay cô, lòng bàn tay anh có vết chai vì cầm súng, thô ráp cọ vào tay cô. Tay Hứa Kiến Chương luôn mềm mại ấm áp, còn tay anh lại đầy sức mạnh, cô cảm thấy toàn thân lạnh ngắt, chỉ có chút ấm áp duy nhất từ lòng bàn tay anh truyền đến, sự ấm áp đó giống như ngọn lửa yếu ớt ngày đông, khiến người ta không kìm được lưu luyến. Trong lòng cô buồn bã đến cực điểm, có một cảm giác bất an lờ mờ khác, cô không biết sự bất an này từ đâu mà đến, chỉ là đau lòng không muốn nghĩ nữa, cô hít một hơi thật sâu, cố ngăn dòng nước mắt: “ Kệ anh ấy… kệ anh ấy đi…”.
Thừa Châu ở phía Bắc, khí hậu vốn khô hanh, mưa ba ngày liên tiếp thật là hiếm thấy. Những hạt mưa như những chiếc kim nhỏ, như những sợi lông bò rơi xuống không phát ra tiếng động, gió thổi tung rèm cửa, mang theo hơi nước lạnh lẽo. Trước cửa sổ có một cây hòe rất lớn, nở đầy hoa, hoa trắng lật phật lật phật trong gió mưa hỗn loạn, một chút hương nhàn nhạt bay vào theo hơi mưa, mát rượi và thơm dịu.
Triệu Thù Ngưng đến thăm Tĩnh Uyển, thấy Lan Cầm ngồi bóc quả hạnh đào trước chiếc bàn nhỏ, liền hỏi: “Sao không bảo nhà bếp làm?”. Lan Cầm nhoẻn miệng cười, nói: “Cậu Sáu sai em bóc để nấu cháo hạt sen hạnh đào, Cậu Sáu sợ nhà bếp làm không sạch sẽ”.
Triệu Thù Ngưng nói dăm câu tào lao với Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển quay mạt đi nhìn trời mưa bên ngoài, bảo: “Vẫn đang mưa”. Thù Ngưng nói: “Đúng thế, mưa hai ngày rồi, mùa màng năm nay nhất định rất tốt, năm ngoái khô hanh khiến đoại soái lo lắng, anh Sáu đích thân đến phía Nam thu mua quân lương”. Thù Ngưng thấy trước giường đặt một giỏ hoa, bên trong cắm mấy trăm bông lựu, đỏ rực như bó đuốc rừng rực, nở rộ gần như muốn cháy lên, tấm tắc khen: “Loại hoa này kết thành tú cầu là đẹp nhất”. Lan Cầm cười nói: “ Biểu tiểu thư khéo tay nhất rồi, kết lẵng hoa, kết tú cầu, ai ai cũng khen đẹp”. Thù Ngưng nói: “Dù sao cũng rãnh rỗi, kết một cái cho Doãn tiểu thư chơi mà”. Lan Cầm liền đi lấy dây kẽm đến, lại lấy hơn trăm bông hoa lựu đỏ rực.
Thù Ngưng ngồi trước giường kết quả cầu hoa, Tĩnh Uyển thấy ngón tay cô thoăn thoắt, một lát sau quả cầu hoa đỏ rực đã hoàn thành, Thù Ngưng lại lấy dây đồng kết thành tua, nói: “Treo trước, đầu giường được không?”. Tĩnh Uyển luôn thích màu sắc rực rỡ, ngh thế liền mỉm cười: “Cô khéo tay thật đấy”.
Thù Ngưng nói: “Tôi học của cô tôi đấy, cô ấy rất khéo tay, con người cũng rất tốt”. Bỗng nhiên mắt Thù Ngưng ngân ngấn: “Tiếc là cô ấy ra đi quá sớm, lúc đó đại soái đánh trận bên ngoài, anh Sáu còn nhỏ nhưng việc tang lễ đều do anh ấy làm chủ. Anh Sáu lúc nhỏ nghịch ngợm lắm, không hiểu chuyện nhất, nhưng cô tôi vừa mất, anh ấy bỗng như trưởng thành lên. Chúng tôi lúc đó chỉ biết khóc, nhưng anh ấy gọi người bên ngoài vào, điện báo cho đại soái trước, sau đó hỏi từng quy tắc tang lễ, giống như người lớn”. Tĩnh Uyển thuận miệng hỏi: “Lúc đó Cậu Sáu bao nhiêu tuổi?”. Thù Ngưng nói: “Mới mười hai tuổi, anh Sáu lúc nhỏ không cao lớn lắm, đại soái thường nói anh ấy vẫn còn chưa cao bằng lan can”. Lan Cầm cười mỉm, chỉ nói: “Nhà trên có rất nhiều ảnh Cậu Sáu hồi nhỏ, em đi lấy cho tiểu thư xem”. Không đợi Tĩnh Uyển nói Lan Cầm đã đi ra ngoài.
Tĩnh Uyển tuy mới quen Thù Ngưng có vài ngày, nhưng cảm thấy tính cách cô ôn hòa nho nhã, lúc này thấy cô yên lặng ngồi đó, không biết đang nghĩ gì, đầu hơi cúi, hàng mi dài rủ xuống như chiếc quạt nhỏ, trên tay cầm một bông hoa lựu, lại ngắt từng cánh hoa đỏ như lửa, những cánh hoa lác đác rơi trên thảm trải nền. Lan Cầm đã quay lại cầm rất nhiều ảnh, đặt từng tấm từng tấm lên giường cho cô xem: “Đây là lúc còn ở Vọng Châu, đây là đại soái và Cậu Sáu, đây là phu nhân và Cậu Sáu…”.
Tĩnh Uyển cầm bức ảnh đó lên, ảnh chụp lúc Mộ Dung Phong khoảng mười tuổi. Trong ảnh, một người phụ nữ khuôn mặt thanh tú đang ngồi trên ghế, Mộ Dung Phong đứng ở bên cạnh, khuôn mặt non nớt ngây thơ, rõ ràng vẫn là một đứa trẻ xấc láo. Cô vẫn còn ngẩn ngơ bỗng nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài, tiếp theo là tiếng cảnh vệ hành lễ, tiếng giày da bước đi ấy cô đã vô cùng quen thuộc, quả nhiên là Mộ Dung Phong đã về.
Mỗi ngày anh đều đến thăm cô mấy lần, lúc này trông anh như mới từ bên ngoài về, vẫn chưa thay quân phục, anh đi vào mới bỏ mũ xuống, Lan Cầm vội đón lấy, Thù Ngưng cũng đứng dậy. Anh nhìn nhìn sắc mặt Tĩnh Uyển trước, cười nói: “Hôm nay hình như tinh thần tốt hơn chút rồi, em ăn cơm chưa?”.
Tĩnh Uyển lắc lắc đầu, anh nói: “Anh phái xe đi đón một vị khách quý, em nhất định sẽ rất vui khi gặp vị khách quý này”. Thấy trên giường bày không ít ảnh của mình, anh bất giác cười tươi hớn hở: “Sao lại xem cái này?”. Anh cúi người xuống cầm một bức ảnh ngày bé của mình lên nhìn một lát, miệng nói: “Dạo trước có một tờ báo đến phỏng vấn anh, chụp cho anh hai bức nửa người rất đẹp, lúc nào anh lấy cho em xem”. Tĩnh Uyển cười cười, hỏi: “Là vị khách quý nào đến thế?”.
Mộ Dung Phong tâm trạng rất vui vẻ, nói: “Bây giờ không nói cho em, lát nữa em gặp sẽ biết”. Giờ anh mới chú ý Thù Ngưng cũng ở đây, liền hỏi: “Bên Tứ phu nhân đã ăn cơm chưa?”. Thù Ngưng đáp: “Em mới đến một lúc cũng không biết nữa”. Cô ngừng lại một lát, nói tiếp: “Em cũng phải về ăn cơm thôi, Doãn tiểu thư, ngày mai tôi lại đến thăm cô”. Tĩnh Uyển biết quy tắc trong nhà họ, ngay cả các phu nhân trưởng bối đều rất kinh sợ Mộ Dung Phong, cho nên không dám giữ Thù Ngưng lại.
Mộ Dung Phong ra vẻ bí hiểm như thế, nhưng Tĩnh Uyển chẳng hề để ý, Mộ Dung Phong nói chuyện phiếm với cô mấy câu, bên ngoài có người thông báo: “Cậu Sáu, Doãn tiên sinh đến rồi”.
Tĩnh Uyển vừa kinh ngạc vừa vui mừng, giống như đang mơ, thấy người làm dẫn vào một người, quả nhiên là Doãn sở Phàn, Tĩnh Uyển gọi một tiếng “Cha”. Nước mắt cô cứ chực trào ra, Doãn Sở Phàn đi lên mấy bước nắm lấy tay cô, mắt cũng ngân ngấn nước: “Tĩnh Uyển con sao rồi, cha và mẹ con lo đến sắp phát điên”. Cô vừa tủi thân, vừa đau lòng, vừa vui mừng, vừa áy náy, tuy mắt ngấn lệ nhưng vẫn cố cười nói: “Cha… con… con vẫn ổn”.
Chương 13
Cha con họ gặp nhau đương nhiên có rất nhiều chuyện để nói. Mọi chuyện từ đầu đến giờ cũng không phải một, hai câu mà nói hết được, Tĩnh Uyển vốn rất tủi thân, nhưng sợ cha lo lắng nên chỉ kể qua loa rồi hỏi: “Cha, sao cha lại đến?”.
Doãn Sở Phàn đáp: “Tối qua cha đã đến rồi, sau khi con đi, mẹ con liền đổ bệnh, cha đành ở nhà lỡ mất mấy ngày, trên đường lại gặp giới nghiêm Thừa Châu, tối qua mới vào thành”. Tĩnh Uyển nghe nói mẹ bệnh, cảm thấy buồn phiền, áy náy hơn: “Mẹ sao rồi ạ? Có nghiêm trọng không?”. Ông Doãn Sở Phàn trầm ngâm mặt nói: “Dù sao con cũng làm chúng ta sốt ruột chết được, con còn hỏi gì nữa? Lúc cha đi, bệnh của mẹ con đã khỏi rồi, chỉ nhớ con quá mà thôi. Tối qua cha hỏi hết nhà trọ lớn nhỏ trong thành đều không tìm thấy con, con thật sự làm cha và mẹ con sợ chết khiếp mới hài lòng hả?”. Tĩnh Uyển trong lòng rầu rĩ, gọi một tiếng: “Cha…”. Ông Doãn Sở Phàn vốn rất tức giận, nhưng khi gặp con gái lại lập tức mềm lòng, huống hồ con gái đang bệnh, càng khiến ông xót xa hơn. Cho nên tuy ông sầm mặt, nhưng không nỡ quở mắng quá lời, chỉ nói: “Sau đó cha đến, gặp sư đoàn trưởng Từ mới biết con ở đây dưỡng bệnh, sao con lạ làm phiền Cậu Sáu thế chứ?”.
Ông nói đến đây liền ngẩng đầu lên nhìn Mộ Dung Phong một cái, Mộ Dung Phong lại rất khách sáo, cúi người nói: “Doãn tiên sinh đừng khách, Doãn tiểu thư là ân nhân cứu mạng của tôi, cho nên tôi mới bạo gạn giữ Doãn tiểu thư ở lại đây dưỡng bệnh”. Doãn Sở Phàn vốn ngờ vực trong lòng, lúc này thắc mắc mới được giải đáp, “ồ” một tiếng. Tĩnh Uyển nói nhiều như vậy, cảm thấy hơi mệt, cô vừa vui mừng vừa buồn bã, cứ nắm tay cha, không muốn buông ra.
Tĩnh Uyển thấy cha đến đương nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên. Cô còn trẻ, lại có bác sĩ giỏi, thuốc tốt, nên hồi phục rất nhanh. Doãn Sở Phàn ngày ngày ở cùng con gái, thấy vết thương của cô có chuyển biến tốt, trong lòng mới yên tâm. Ông cũng là thương nhân rất có tiếng ở Càn Bình, có quan hệ qua lại với không ít nhân vật trong Thừa quân. Lần này Doãn Sở Phàn đến Thừa Châu, rất nhiều bạn bè cũ muốn tiếp đãi thể hiện lòng hiếu khách, vết thương Tĩnh Uyển dần hồi phục, ông mới tranh thủ thời gian đi gặp mặt họ.
Hôm đó công việc của Mộ Dung Phong không bận bịu cho lắm, buổi trưa đã về, anh hễ về nhà là đến thăm Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển có thói quen ngủ trưa, Mộ Dung Phong vừa đi vào phòng ngoài, đúng lúc Lan Cầm đi ra, cô cười nhỏ nói: “Cậu Sáu, Doãn tiểu thư ngủ rồi”. Anh chần chừ một lát, cuối cùng vẫn đi vào trong. Rèm cửa trong phòng đều kéo kín, những quả bông nhỏ ở chân rèm khẽ đung đưa trong gió, khắp phòng tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả hơi thở yếu ớt của cô, dường như Tĩnh Uyển đang ngủ rất say, khóe môi hơi cong lên, tựa như đang cười. Anh sợ làm cô tỉnh nên đi đến trước giường, im lặng nín thở, ngắm khuôn mặt đang ngủ say ấy anh không kìm được cúi người xuống. Sau khi bị thương Tĩnh Uyển ngủ không sâu lúc anh đi vào tuy rất nhẹ nhàng, nhưng quần áo sột soạt, cô mang máng nghe thấy, lờ mờ ngửi thấy hơi thở mang mùi bạc hà thanh mát, liền biết là ai, không hiểu vì sao nhất thời cô không mở mắt ra.
Anh cúi người xuống, hơi thở ấm ấm cua cô phả vào mặt anh, trên môi cô đã ửng sắc hồng, không còn nhợt nhạt như trước, sắc hồng đó mê hồn biết bao, tựa như sự mê hoặc lớn nhất thế gian. Gần như vậy, đưa tay ra là có thể chạm tới, anh chầm chậm tiến gần hơn nữa, tim Tĩnh Uyển đập thình thịch, cô muốn mở mắt ra theo bản năng, chính vào lúc đó hơi thở anh lại xa dần, cuối cùng anh chỉ đưa tay kéo mép chăn cho cô. Trong lòng cô rối như tơ vò, cũng không biết là vui mừng, hay là trăm ngàn cam xúc không nói thành lời. Cô rất hiếm khi rối loạn như vậy, nhưng luôn cảm thấy một sự bất an mơ hồ ở nơi sâu thẳm trái tim, cô không muốn nghĩ sâu xa hơn, cứ giả vờ như mới tỉnh dậy, chầm chậm mở mắt ra.
Mộ Dung Phong thấy cô tỉnh, cảm thấy hơi áy náy: “Anh làm em tỉnh dậy rồi à?” Ánh sáng trong phòng ảm đạm, anh vẫn chưa thay quần áo, trên người vẫn là bộ quân phục, thắt lưng và cầu vai đều là sắc vàng lạnh lẽo, nhưng ánh mắt anh ấm áp như lụa. Cô lắc lắc đầu, anh cười nói: “Đã tỉnh rồi thì anh đưa em đi xem một thứ”.
Anh luôn dùng trăm phương nghìn kế để đổi lấy một nụ cười của cô, lúc này cô lại lười hoạt động, nói: “Buổi chiều xem đi”. Anh là người nói là làm, thế nên đành nhẫn nại nịnh cô: “Không xa đâu, trong căn nhà này thôi, họ mất rất nhiều công sức mới làm được, buổi chiều anh còn có việc phải ra ngoài, bây giờ anh cùng em đi xem nhé”
Hóa ra là một nhà kính trồng hoa kiểu Tây, xung quanh đều là tường kính, trần cũng bằng kính, Tĩnh Uyển nhìn từng chậu hoa lan trên giá, bất giác nín thở im lặng, lúc lâu sau mới chỉ chậu hoa trước mặt: “Là lan Thiên Ly ở đâu ra thế? Theo em biết, mười sáu tỉnh Giang Bắc không đâu có nổi một chầu hoa này”. Mộ Dung Phong nói: “Lần trước em từng nói, trong các loại hoa lan thì hoa là quân tử, khiến em yêu thích nhất, cho nên anh sai người đi khắp nơi sưu tầm”.
Cô biết hoa tuy quý hiếm, Mộ Dung Phong nắm giữ quyền hành, hoa dùng tiền mua về cũng không phải chuyện khó, cái hiếm có là một câu nói vu vơ của cô, vậy mà anh ghi nhớ trong lòng, sai người hao tâm tổn sức thực hiện. Từ trước đến nay, anh đối xử với cô đều rất nồng hậu, sau khi cô bị thương lại càng dịu dàng quan tâm hơn nữa. Người đàn ông xuất sắc như thế, suy nghĩ thấu đáo như thế, trong lòng cô bất giác hơi cảm động, rất lâu sau, cô nói: “Nhiều chủng loại quý hiếm vậy, nhà kính hoa lan này đương nhiên là độc nhất vô nhị, nhưng là loài hoa yếu ớt, khí hậu phía Bắc không hợp, chỉ sợ không sống nổi”.
Mộ Dung Phong nói: “Anh tin chỉ cần có tấm lòng thì không gì là không thể. Chỉ cần bỏ ra công sức, số hoa lan này nhất định sống được”. Con người anh vốn mang khí chất oai hùng, nhưng lúc này ánh mắt dịu dàng như nước, như có thể dìm chết người khác, cô nhìn sang chỗ khác, thẫn thờ nhìn chậu hoa lan Thiên Ly độc nhất vô nhị đó, giống như chưa từng nghe thấy lời anh nói. Mộ Dung Phong thấy cô nhìn hoa đến thất thần, cũng không nói gì, hai người đứng giữa đám hoa lan, cứ yên lặng như thế.
Chuyến này đến Thừa Châu, Doãn Sở Phàn định đưa con gái về nhà, sau lại nghe nói Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cãi nhau, ông cũng chỉ cho rằng con gái mồm mép, nhất thời nóng giận. Nhưng sau khi gặp Mộ Dung Phong, ông mới lờ mờ đoán được vàì phần; mấy người bạn cũ của ông ở Thần quân lần này lại vô cùng khách khí, giờ mới biết Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong quen biết đã lâu, quan hệ thân mật, ai ai cũng biết. Trong lòng ông rất tức giận, sáng sớm tinh dậy đã lập tức đi tìm con gái. Nơi Tĩnh Uyển ở lại một căn phòng rất lớn, mới sáng sớm mà bên ngoài đã có người hầu đứng chầu sẵn, thấy ông đến liền cung kính chào hỏi, lại có người giúp ông mở cửa, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười của Mộ Dung Phong.
Hóa ra hôm nay Mộ Dung Phong đã đến từ sớm, nói với Tĩnh Uyển: “Anh có thứ này muốn tặng em”. Khóe môi cong cong, Thẩm Gia Bình mỉm cười đi vào, trên tay cầm một chiếc lồng. Tĩnh Uyển thấy trong lồng có một con mèo lớn đang ngủ, móng vuốt đang quắp lấy thanh sắt, phát ra tiếng gừ gừ, dáng vẻ ngây thơ. Cô liền cười nói: “Con mèo to quá”.
Mộ Dung Phong vừa cười vừa đoán lấy chiếc lồng, nói: “Biết nay em nhìn thành mèo… “. Thấy cô đưa tay ra, anh vội nói: “Cẩn thận, đây là hổ đấy”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, lập tức cười: “Em chưa từng thấy con hổ nào nhỏ như vậy”. Con hổ con đó đang nhe nanh trong lồng, gừ gừ liên tục, một lúc sau lại thè lưỡi ra liếm đến mức thanh sắt của chiếc lồng đó phát ra tiếng ken két. Tĩnh Uyển không kìm được định vuốt đám lông mềm mại trắng muốt đó, tay còn chưa chạm đến, Mộ Dung Phong đã kêu “này” một tiếng, khiến cô sợ rụt tay lại, lúc ấy mới biết anh dọa mình, còn anh thì bật cười, Tĩnh Uyển huých vào khuỷu tay anh, trách: “Sao anh xấu tính thế”.
Mộ Dung Phong mỉm cười, định nói, ngẩng đầu lên thấy Doãn Sở Phàn đang đi vào, liền rất khách sáo chào: “Doãn tiên sinh”. Tĩnh Uyển cười gọi: “Cha”. Mộ Dung Phong nói với Tĩnh Uyển: “Anh còn có việc, lúc khác lại đến thăm em”. Rồi anh quay sang nói với Doãn Sở Phàn: “Doãn tiên sinh nếu có việc gì, chớ khách sáo, cứ dặn dò người làm là được”.
Sau khi anh đi, Doãn Sở Phàn ngồi ở đó, lấy tẩu thuốc ra, lại nghe y tá nói ở đây không được hút thuốc, nên chỉ ngậm trong miệng theo thói quen, không hề châm lửa. Tĩnh Uyển nhìn móng vuốt của con hổ con thò qua khe hở của chiếc lồng, cào cào hoa văn trên tấm thảm thảm trải nền kêu sột soạt. Doãn Sở Phàn nhìn con hổ con đó một lúc, gõ gõ chiếc tẩu thuốc lên bàn, Tĩnh Uyển gọi một tiếng: “Cha”. Doãn Sở Phàn thở dài nói: “Con à, đũa mốc đừng chòi mâm son”.
Tĩnh Uyển tuy rất phóng khoáng, nhưng nghe cha nói thẳng thừng thế,cuối cùng không kìm được, mặt ửng đỏ, cô cười ngượng ngập nói: “Cha nghĩ đi đâu rồi thế”. Doãn Sở Phàn nói: “Đợi vết thương của con tốt hơn một chút, chúng ta nên mau về Càn Bình, cha thấy con và Kiến Chương chỉ có chút hiểu lầm. Hai đứa đã đính hôn, nhà ta và Hứa gia giao hảo nhiều năm, có việc gì cũng có thể bàn bạc”.
Không biết vì sao, nghe thấy cha nói vậy Tĩnh Uyển cảm thấy rất tức giân, càng cảm thấy khó xử mà không thể nói rõ, cô nói: “Sao ngay cả cha cũng không tin con? Giữa con và Cậu Sáu là cùng chung hoạn nan, anh ấy đối với con cực kỳ khách sáo, con cũng không biết làm thế nào khác”. Doãn Sở Phàn ngậm tẩu thuốc, nói: “Từ nhỏ con đã thông minh, cha không tin con không có cách từ chối sự khách sáo của cậu ấy, cậu ấy cực kỳ khách sáo với con, cha thấy con lại cực kỳ không khách sáo với cậu ấy”. Tĩnh Uyển bản tính ương bướng, khóe miệng xị xuống, giận dỗi nói: “Cha, vậy cha đợi đó mà xem, dù sao con không hề có ý đó, hoặc là anh ấy hiểu lầm, con nghĩ cách để anh ấy từ bỏ ý nghĩ đó là được”.
Cô đã nói quyết liệt như thế, Doãn Sở Phàn không hỏi thêm nữa. Tĩnh Uyển quả nhiên nhất quyết tìm cơ hội, chỉ là không có thời cơ thích hợp. Hôm đó Triệu Thù Ngưng đến thăm cô, hai người nói chút chuyện thường ngày. Triệu Thù Ngưng thấy có một khẩu súng ngắn nhỏ khảm đá quý kiểu Tây đặt trước giường, mới nói: “Nghe anh Sáu nói, khẩu súng này được đặt làm từ nước ngoài, hơn nữa đặt một đôi ,rất quý giá đó”. Khẩu súng này là Mộ Dung Phong tặng Tĩnh Uyển cùng với vé tàu trước khi sự việc xảy ra, cô vốn định lấy ra định trả cho Mộ Dung Phong, lúc này nghe Triệu Thù Ngưng nói có một đôi, cảm thấy hơi bối rối, lại thấy hơi kỳ lạ, liền nói lảng: “Cậu Sáu bắn súng rất giỏi”.
Trong giây lát, mắt Triệu Thù Ngưng sáng lên, cô nói: “Kỹ thuật bắn súng của anh Sáu là do đích thân đại soái dạy, Anh Sáu từ nhỏ đã không chịu thua kém người khác, tôi nhớ lúc sáu, bảy tuổi, đại soái hỏi sau này anh ấy lớn lên muốn làm quân đoàn trưởng không, ai ngờ anh Sáu noí, lớn lên anh ấy sẽ không làm quân đoàn trưởng, đại soái hỏi vậy lớn lên anh muốn làm gì, anh Sáu vênh mặt lên đáp: “Trị quốc bình thiên hạ”. Sau này đại soái luôn vô cùng đắc ý, luôn khen anh Sáu có chí khí”.
Tĩnh Uyển thấy lời nói của cô mang theo sự khâm phục vô hạn. Triệu Thù Ngưng thấy Tĩnh Uyển chăm chú nhìn mình, đỏ mặt cúi đầu, nói: “Tôi luôn hay lắm chuyện như thế, có chút chuyện cũng lải nhải bao lâu, chỉ sợ Doãn tiểu thư nghe thấy phiền”. Tĩnh Uyển nói: “Không, tôi rất thích nghe mà”. Cô lại hỏi: “Chị Triệu sinh năm nào? Tôi đoán chị lớn hơn tôi”. Triệu Thù Ngưng nói: “Tôi nhỏ hơn anh Sáu một năm bốn tháng”. Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Em và Cậu Sáu kết nghĩa anh em, vậy em gọi một tiếng chị, chị đừng chê em”. Triệu Thù Ngưng “à” một tiếng: “Hóa ra em và anh Sáu là kết nghĩa anh em, chị còn tưởng….” nói đến đây Thù Ngưng cười cười. Tĩnh Uyển sao mà không hiểu, chỉ là giả vờ ngây ngô: “Em trẻ tuổi hồ đồ to gan, dù sao trèo cao có người anh là Cậu Sáu, chị và Cậu Sáu là anh em họ, vậy chị cũng chính là chị của em rồi”.
Triệu Thù Ngưng nghe cô gọi một câu chị, hai câu chị, giọng điệu ngọt ngào, ý tứ khóe léo, làm sao mà không thích. Hai người ngày càng thân thiết, sau này Triệu Thù Ngưng thường hay đến chơi với cô cho đỡ buồn.
Hôm đó sư đoàn trưởng Từ mời Doãn Sở Phàn ăn cơm, ngày nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, Mộ Dung Phong luôn đến thăm cô một lát, có điều tối anh thường họp rất muộn, quay về cô đã ngủ, hôm nay tan họp sớm hơn, Tĩnh Uyển vẫn chưa đi nghỉ, anh cười nói: “Hôm nay cuối cùng đã gặp được em rồi, hôm qua hôm kia lúc anh đến, em đều ngủ rồi”.
Tĩnh Uyển gọi Lan Cầm: “Đi lấy đồ ăn đêm đến cho Cậu Sáu”. Lan Cầm nghe lời bưng lên một bát mì nhỏ, Mộ Dung Phong thấy mì thịt gà xé phay, nước dùng dầu hạt cải thơm ngon, liền nói: “Làm phiền quá, cảm ơn nhiều”. Lan Cầm tươi cười đáp: “Doãn tiểu thư đã bảo nhà bếp chuẩn bị từ trước, nhưng không dám nấu quá sớm, sợ lúc Cậu Sáu đến mì nát hết”. Mộ Dung Phong cầm đũa, Lan Cầm lặng lẽ lui ra, Mộ Dung Phong ăn rất ngon, chậm rãi ăn từng chút một, anh hỏi: “Sao em biết anh thích ăn món này?”.
Tĩnh Uyển cười đáp: “Em hỏi chị Thù Ngưng, chị Thù Ngưng thật chu đáo, anh thích ăn gì, thích uống gì, thích cái gì, không thích cái gì, chị Thù Ngưng đều nhớ rõ”. Vẻ mặt Mộ Dung Phong hơi thay đổi, bất giác dừng đũa, Tĩnh Uyển sợ làm hỏng chuyện, không dám nói nữa, chỉ cười hỏi: “Sao anh không ăn nữa?”.
Mộ Dung Phong cười một tiếng: “Sao em không nói nữa?”. Tĩnh Uyển thấy anh cười, nhưng trong mắt lại ánh lên sự lạnh lẽo, lòng sợ hãi mỉm cười gọi một tiếng: “Đại ca”. Cô chưa nói hết Mộ Dung Phong đã vứt đũa đi, đôi đũa đó vốn gắn với nhau bằng sợi dây bạc nhỏ, chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng sợi dây đã đứt, một chiếc đã bay ra ngoài, một chiếc khác rơi xuống đất, nước dùng trong bát cũng sánh ra, ánh mắt như muốn giết người, chằm chằm nhìn cô: “Doãn Tĩnh Uyển, em đừng ép anh quá đáng, hôm nay anh nói thẳng ra, anh không làm đại ca gì của em hết, anh thích em, viên đạn đó suýt nữa lấy mạng của em, cũng suýt lấy mạng anh, lúc đó anh đã hạ quyết tâm, chỉ cần em sống em sẽ phải là của anh, cho dù em giận anh, hận anh, anh cũng không hề hối tiếc”.
Tĩnh Uyển không ngờ anh nói ra những lời đó, chỉ thấy trong mắt anh như có ngọn lửa đang cháy rừng rực, cô ngồi trên mép giường, anh đưa tay ra nắm lấy vai cô, cô hoảng hốt sợ hãi, đôi môi ngang ngược mà nóng bỏng đã áp lên môi cô, cô hơi vũng vẫy, động vào vết thương ở trước ngực, cô đau đớn, không kìm được “á” một tiếng, anh lại nhân cơ hội mà “công thành chiếm đất”, hút lấy sức ngọt ngào trong miệng cô. Cô sợ đến cực điểm, đưa tay đẩy anh ra, lại bị siết chặt hơn, hơi thở anh cuồng bạo chiếm lấy hơi thở cô, cô yếu ớt bám lấy khuỷu tay anh, móng tay cào vào trán anh, anh bị đau đớn mới chịu buông tay ra.
Anh thở dốc và gấp, cô vốn là người to gan, nhưng không biết vì sao cũng hoảng loạn đến cực điểm, chỉ dám thở nhè nhẹ. Anh lại gọi nhỏ: “Tĩnh Uyển”. Cô hơi ngửa mặt lên, ánh mắt rừng rực như lửa, giọng nói lại đè nén mà khào khào: “Tĩnh Uyển, anh mong em có thể ở lại bên cạnh anh. E rằng Thừa – Dĩnh sắp đánh nhau, anh không thể để em đi, càng không thể xa cách em bởi khói lửa chiến tranh”.
Tĩnh Uyển cũng không biết mình đang nghĩ gì, bất an mà hoảng sợ, cô rất ít khi sợ hãi, cho nên cảm giác này khiến cô run rẩy, trên môi vẫn còn hơi thở của anh, mãnh liệt mà nóng bỏng như thế, giống như đốt cháy nơi sâu thẳm nhất trái tim cô, cô không dám nghĩ gì, chỉ hoảng hốt hỏi một câu chẳng liên quan: “Sao lại đánh nhau?”.
Trong mắt anh có một ngọn lửa âm u, chiếu ra ánh sáng rỡ ràng: “Trận đánh này là khó tránh khỏi, Thừa – Dĩnh đối đầu với nhau mấy năm, tuyệt đối không phải kế sách lâu dài. Mấy năm nay anh sớm đã dự tính, chỉ có thống nhất mười sáu tỉnh Giang Bắc, sau đó mới quyết chiến một trận với Khương Song Hỷ, Lý Đồng Niên ở phương Nam. Thiên hạ chia năm xẻ bảy, cũng nên quy về một mối.
Tĩnh Uyển ngơ ngác nhìn anh: “Phía Bắc có người Nga dòm ngó chằm chằm như hổ đói, mấy năm nay Dĩnh quân và Thừa quân ngang tài ngang sức, nếu anh đồng thời dùng binh ở cả hai phía Nam Bắc, làm sao có thể có nửa phần thắng lợi? Anh điên thật rồi”.
Mộ Dung Phong nhìn cô một lúc lâu, bỗng nhiên hôn nhẹ lên trán cô, Tĩnh Uyển nhất thời sững sờ, nhưng không hề né tránh. Anh mỉm cười nhìn cô, nói: “Anh điên rồi sao? Thế thì anh mới thích em đến phát điên như thế này. Chinh chiến gian nan là việc của đàn ông, vốn không nên nói với em, nhưng anh muốn cho cả thiên hạ thấy, anh muốn cho em biết, anh có hoài bão như thế nào. Tĩnh Uyển, anh muốn cho em hạnh phúc mà phụ nữ trên thế gian này đều phải ngưỡng mộ, anh muốn tặng cả thiên hạ cho em”.
Chương 14
Bên ngoài vang lên những âm thanh khe khẽ, Tĩnh Uyển hơi hoảng hốt quay mặt đi, là trời mưa. Mưa xuống rất nhanh, tiếng mưa tí tách rớt lên cành, lá cây. Vốn là đầu hạ, nhưng vì trận mưa này luôn khiến người ta nhớ đến cuối thu, một chút lạnh lẽo thấm vào trong tim gan, dường như cô lại trở nên sợ hãi.
Cô nhớ đến lúc nhỏ, chỉ khoảng bảy, tám tuổi, gia đình vẫn còn sống ở căn nhà cũ, mùa hè trời bỗng đổ mưa, cô và Kiến Chương ở sau vườn, cô lấy gạch chặn rãnh nước, cả vườn toàn là nước, cô kéo anh nghịch nước ở trong vườn. Toàn thân ướt đẫm, giống như hai chú chim ướt mềm, nhưng vui vẻ biết bao, tiếng cười giòn tan biết bao. Cuối cùng vú nuôi tìm thấy họ, bà vừa lo vừa bực kéo họ vào phòng, cha rất tức giận thuận tay liền lấy chổi lông gà đánh cô, Kiến Chương sợ hãi quỳ xuống: “Bác, bác, là cháu nhát thời nghịch ngợm, không liên quan đến em ấy”.
Lúc nhỏ anh luôn gọi cô là em gái, bảo vệ cô, lén lút viết chữ giúp cô, vì cô không thích luyện chữ, nhưng hàng ngày phải tập viết chữ nộp bài, ở nhà anh viết giúp cô mấy tờ liền, để cô đối phó. Đến bây giờ, nét chữ của anh cũng giống cô mấy phần.
Không biết từ bao giờ, anh không gọi cô là em gái nữa, là lúc đi học sao? Cô học trường nữ, là trường của người nước ngoài lập ra, bạn học trong trường đều là tiểu thư con nhà giàu quyền quý. Mới tí tuổi cũng biết so đo, so gia thế, so thời thượng, so quần áo mới, cô luôn là người xuất sắc nhất, cái gì cũng phải hơn người ta. Sau khi đi du học, một bạn học thân thiết viết thư cho cô, bạn học đó đính hôn với con trai tổng lý nội các, ra vẻ vô ý nhưng câu chữ đều toát lên sự khoe khoang. Cô từng hơi tức giận, nhưng nghĩ lại Kiến Chương dịu dàng chu đáo, trên thế giới này không có người thứ hai đối xử với cô tốt hơn anh.
Mộ Dung Phong thấy cô thẫn thờ, liền đi lại đóng cửa sổ, nói: “Ban đêm gió mạnh, vết thương của em mới lành, em đừng để bị lạnh”. Anh quay đầu lại nhìn cô, mỉm cười với cô.
Trái tim cô rối loạn đến cực điểm, nghĩ đến ngày hôm đó ở vườn hoa lan, những lời anh nói. Lúc đó bản thân hơi cảm động, cô lập tức nghĩ đến Kiến Chương, hễ nghĩ đến Kiến Chương trong lòng lại đau đớn. Từ lúc quen nhau, Mộ Dung Phong giống như một mũi tên bay, làm rối loạn tất cả nhịp điệu của cô, cô vốn cho rằng cuộc đời thuận buồm xuôi gió, yêu Kiến Chương, kết hôn, sinh con, yên ổn hết nửa đời còn lại, cả đời cứ như thế.
Nhưng anh không vậy, anh mở ra cho cô một thế giới, thế giới này có sự phồn hoa rực rỡ mà người phàm ước ao, còn rất nhiều nguy hiểm và đổi thay. Đáng sợ như thế, rực rỡ sáng rọi, lại thịnh vượng như thế, giống như sự mê hoặc lớn nhất kích thích cô. Anh nói: “Anh muốn đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trên thế giới có mấy người đàn ông có thể tỏ tình với người phụ nữ mình yêu như thế chứ? Cô không hề tham giàu sang phú quý, nhưng cô tham lam cái tương lai tươi mới, kích thích không thể đoán trước đó. Chỉ là sâu thẳm tận đáy lòng luôn tồn tại một sự sợ hãi, không cách gì nắm giữ được. Không dám nghĩ tới. Đến hôm nay anh nói hết cả, sự sợ hãi đó lại càng rõ ràng và nặng nề hơn, cô sắp xếp những ý nghĩa hỗn loạn, dần dần thấy được đầu mối, sự sợ hãi đó trở thành một sự lạnh lẽo, lạnh đến tận tim gan, cô biết không có cách nào tự lừa dối mình nữa, sự nghi ngờ luôn giấu trong lòng cô không thể coi như không thấy. Bỗng nhiên cô rùng mình, ngẩng đầu lên.
Cô nói từng câu từng chữ rõ ràng: “Cậu Sáu, có một việc anh phải nói rõ cho em biết, anh đã làm gì với Kiến Chương?”.
Dường như anh hơi bất ngờ, lại dường như sớm đã dự đoán trước, khuôn mặt đầy vẻ phức tạp khó nói, ánh mắt sáng, khóe miệng nhướn lên, anh nói: “Anh biết sẽ có ngày em hỏi như vậy”. Tim cô lạnh đến cực điểm. Giọng anh vẫn điềm nhiên: “Anh không làm gì cậu ta hết, anh chỉ để cậu ta hiểu rõ quan hệ lợi hại. Tĩnh Uyển, cậu ta không yêu em hết lòng, ít nhất cậu ta không chịu vì em mà từ bỏ việc làm ăn ở Thừa Châu, từ bỏ tiền tài lợi ích”.
Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy hụt hẫng không gì sánh nỗi, cũng không biết là thất vọng vì Kiến Chương, hay thất vọng vì anh nói thẳng ra như vậy, trong mắt tràn ngập tuyệt vọng. “Quả nhiên anh bỉ ổi như thế”. Tim anh thắt lại, anh không hề giận, mà cảm thấy đau đớn: “Bỉ ổi? Anh cũng chỉ để cậu ta tự chọn, không thể nói là anh bỉ ổi. Tĩnh Uyển, tất cả mọi thứ trên thế giới này đều do ta tự mình giành lấy. Cậu ta ngay cả tranh giành cũng không dám, làm sao có thể bảo vệ được em? Ngay cả người con gái cậu ta yêu cũng không bảo vệ nổi, còn là đại trương phu gì chứ?”.
Đáy mắt cô cháy lên ngọn lửa âm u: “Anh lấy quyền lực, sức mạnh ép anh ấy, anh ấy còn có thể chọn thế nào?”.
Anh nắm lấy tay cô: “Tĩnh Uyển, anh yêu em, cho nên anh muốn để cậu ta biết, anh yêu em hơn cậu ta. Đây không phải là anh dùng thủ đoạn, anh chỉ bày ra sự thật cho cậu ta xem”. Cô thản nhiên đáp: “Anh không thể lấy tình yêu làm cái cớ, biện hộ cho sự cưỡng đoạt của anh”. Mắt anh lóe lên tia lửa giận: “Cưỡng đoạt, hóa ra em nghĩ như vậy. Doãn Tĩnh Uyển, chắc em quá xem thường Mộ Dung Phong anh rồi, nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, tên họ Hứa kia e rằng ngay cả tính mạng cũng không giữ được; nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, anh sẽ không coi trọng em, yêu em, đến bây giờ cũng không động vào một ngón tay em. Anh tự hỏi hơn hai mươi năm nay, anh chưa từng hết lòng vì ai như thế, thứ em muốn, anh làm mọi cách đem đến trước mặt em, anh đối xử với em như thế nào, cứ tưởng em đều rõ cả. Tại sao? Tại sao em lại đối xử với anh như vậy?”. Ánh mắt anh như muốn giết người. Anh đáng sợ như thế, Tĩnh Uyển không biết vì sao, bỗng lấy hết can đảm, ngẩng mặt lên nói lớn: “Vì em không yêu anh”.
Câu nói đó rõ ràng rành rọt, toàn thân anh chấn động, hình như cô cũng bất ngờ. Anh nhìn cô, giống như nằm mơ, anh “ừ” một tiếng, rất lâu sau, mới nói nhỏ: “Em không yêu anh ư?”. Tim cô giống như nước đang sôi, vô số bọt sủi lên, không biết vì sao như muốn nứt toác ra, cô cố gắng nén xuống, như nói với chính mình, từng tiếng từng từ đều rất nặng nề: “Em không yêu anh”. Bàn tay anh lạnh ngắt, khớp xương cứng đờ nắm lấy tay cô, lực tay như bỗng không chịu khống chế, tay cô đau nhức, nhưng tim cô càng rối loạn hơn, giống như một ấm nước sôi trào hết ra ngoài, sau sự đau đớn là cảm giác tê dại, biết rõ sau cơn tê dại sẽ đau đớn đến tận xương tủy, nhưng cô chỉ nghĩ: Mình không thể nghĩ nữa, cũng không muốn nghĩ nữa.
Cô chầm chậm rút tay ra, từng chút từng chút một, rồi cô quay mặt đi, nói: “Cậu Sáu, mời ra ngoài, em phải nghỉ ngơi rồi”.
Mộ Dung Phong nói: “Anh biết em sẽ oán trách anh, nhưng anh chỉ muốn nói cho em thấy rõ bộ mặt thật của cậu ta, cậu ta cứ một mực nói yêu em, nhưng hễ nguy hại đến lợi ích cá nhân và gia đình là lập tức bỏ em mà đi. Tĩnh Uyển, em vẫn không hiểu sao?”.
Trong lòng cô trống rỗng, cảm giác còn khó chịu hơn cả buồn bã, dường như ai đó đang khoét đi một miếng trong tim, rồi cố nhét vào một thứ gì đó cứng như đá vào, cô kháng cự lại sự ép buộc này theo bản năng, ngẩng mặt lên, cô chầm chậm nở nụ cười: “Cậu Sáu, anh nói đúng, anh chỉ muốn cho em thấy bộ mặt thật của anh ấy, nhưng cuộc đời là thế, đều là bất đắc dĩ, chẳng lẽ Cậu Sáu có thể vì Tĩnh Uyển từ bỏ sinh mệnh của gia đình và bản thân, một nửa giang sơn sao?”.
Anh nhất thời sững sờ , rất lâu sau mới gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô nói tiếp: “Cậu Sáu ,việc bản thân mình không thể không làm thì đừng yêu cầu người khác, chẳng lẽ ngay cả đạo lý này anh cũng không hiểu”.
Tim anh thắt lại, vẻ mặt cô lãnh đạm mà xa xôi, sự xa xôi đó khiến tận sậu đáy tim anh đau đớn, anh chưa từng cảm thấy bất lực như vậy, cuộc đời hơn hai mươi năm chưa từng có thứ gì anh không đạt được, hơn nữa, anh biết rõ vẫn còn có thứ tốt hơn đang đợi anh. Anh có hoài bão lớn, anh có tất cả mọi thứ trên thế giới, nhưng duy nhất chỉ có thời khắc này khiến anh rõ ràng cảm thấy đang mất mát, sự mất mát đó khiến anh bất lực, anh muốn nói gì đó, nhưng một câu cũng không nói ra được.
Mưa bên ngoài càng lúc càng lớn, tiếng mưa rào rào, nghe càng thêm hỗn loạn đến kỳ lạ. Cô hơi cúi mặt, đôi hoa tai lạo xạo cọ vào cổ áo, dưới ánh đèn hai chiếc bóng nhỏ đung đưa, in lên chiếc sườn xám bằng lụa Ỷ Vân màu vàng cam của cô, thứ lụa Ỷ Vân vốn rất mỏng và trơn, dưới ánh đèn ánh lên ánh sáng trắng lành lạnh, anh nhớ lại lúc nãy ôm cô vào lòng, lớp lụa lạnh lẽo áp vào cánh tay anh, chỉ có cô là ấm nóng, khiến cuộc đời có sự vu vẻ mê hoặc,giống như con thiêu thân lao mình vào lửa.
Nhưng bây giờ chỉ có sự lạnh lẽo của lụa lưu lại trên cánh tay anh, sự lạnh lẽo đó chầm chậm chảy vào trong tim, bung ra nỗi đau đớn không thể kìm nén. Anh biết rõ chỉ còn lại sự hụt hẫng, hoa tai của cô vẫn đang lay động, như một trái tim không an phận, lay động khiến anh cũng trở nên hoảng loạn, không có cách nào nghĩ kỹ.
Năm nay Thừa Châu nhiều nước, trong tháng năm đã mưa rất nhiều trận lớn, đến tháng sáu âm lịch ngay cả sông Thừa Giang cũng đầy nước, nước sông nổi lên màu xanh lục, xoáy nước đục mà siết, sóng nước nhấp nhô lên xuống như vô số những con ngựa hoang không an phận, gào thét phi đi, như bất cứ lúc nào cũng muốn vượt qua bờ đê, tràn vào thành Thừa Châu.
Sáng nay lại mưa lớn, Hà Tự An cầm ô bước thấp bước cao đi trên đê, bùn nước lầy lội ngập đến tận cẳng chân. Trong màn mưa trắng xóa, thấy xa xa có khoảng mười chiếc ô lớn, đám người đang quan sát chỉ trỏ dưới bờ đê, trong lòng vui mừng, Hà Tự an rảo bước thở dốc đi đến: “Cậu Sáu!”.
Tuy xung quanh đều che ô, nhưng vì gió tạt quá mạnh, quần áo Mộ Dung Phong vẫn ướt đẫm, thấy Hà Tự An đến, trên mặt anh không biểu lộ điều gì, chỉ hỏi: “Sao rồi?”. Hà Tự An thấy xung quanh đều là cận vệ, có thêm mấy vị quan phụ trách thủy lợi đê điều, anh không tiện nói nhiều, đáp mập mờ: “Đối phương đã đồng ý rồi, nhưng điều kiện rồi… Cậu Sáu về rồi, tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ với Cậu Sáu”.
Mộ Dung Phong hơi nhướn mày, quay mặi đi nhìn nước sông đục ngầu cuồn cuộn, sông Thừa Giang từ Thừa Châu chảy qua nhiều tỉnh Giang Châu, Minh Châu, rồi nhập vào Vĩnh Giang. Phía Bắc Vĩnh Giang còn gọi là mười sáu tỉnh Giang Bắc, đến bây giờ chín tỉnh đã nằm trong tay anh, bảy tỉnh còn lại là Dĩnh quân khống chế, còn phía Nam Vĩnh Giang lại là vô số núi hồ, vựa cá vựa gạo. Mưa rất lớn, bong bóng trắng xóa nổi đầy trên mặt sông, không nhìn thấy bờ bên kia, anh gọi nhân viên thủy lợi đến, nói: “Bây giờ tình hình cấp bách, tôi chỉ có một câu, anh còn đê còn, anh cũng không cần tồn tại nữa”.
Người đó vốn là quan viên dân sự, sợ đến mức luôn miệng vâng dạ. Mộ Dung Phong cũng không để ý, chỉ nói: “Đi về”.
Từ lúc lũ lên, ngày ngày Mộ Dung Phong đều phải đích thân đến đê quan sát tình hình. Quay về phủ đốc quân, anh đi thay quần áo ướt. Hà Tự An đợi ở phòng khách, thấy Thẩm Gia Bình ở hành lang, anh và Thẩm Gia Bình vốn đùa nghịch không giữ lễ tiết quen rồi, anh đi công tác bên ngoài đã hơn tháng, vừa nãy không có cơ hội nói chuyện, lúc này liền vỗ vai Thẩm Gia Bình nói: “Này, lão Thẩm, có việc gì mà căng thẳng thế, nhìn dáng vẻ chau mày khổ sở của cậu kìa”. Thẩm Gia Bình trề môi, mặt ngước lên trên lầu, Hà Tự An vốn là người tinh ý, lập tức hiểu ngay: “Tôi nói Cậu Sáu sao trông không vui vẻ, trên xe cũng không nói với tôi một câu. Người đó sao thế?”.
Thẩm Gia Bình thở dài “hầy” một tiếng, nói: “Cậu đi công tác hơn một tháng đương nhiên không biết. Nói ra cũng kỳ lạ, lúc đầu vẫn rất tốt, sau đó có một ngày bỗng nhiên cãi nhau, mấy ngày nay Cậu Sáu cũng không đi hỏi thăm cô ấy. Cô ấy cũng chuyển về phòng khách ở rồi, hai người gặp mặt vô cùng khách sáo, Doãn lão gia lại xen vào giữa, xem ra vết thương của Doãn tiểu thực cũng sắp khỏi hẳn rồi, Doãn lão gia mấy ngày trước đặt vé, chiều nay cùng Doãn tiểu thư lên tàu về Càn Bình”.
Hà Tự An nghĩ một lát, hỏi: “Vậy ý của Cậu Sáu là cứ để như thế sao?”. Thẩm Gia Bình chần chừ một lát, nói: “Đã để cho cô ấy đi rồi, chắc là định kết thúc ở đây thôi”. Đúng lúc đó, có một người hầu từ phòng trên đi đến gọi người chuẩn bị xe, nói: “Cậu Sáu muốn tiễn Doãn tiểu thư đến nhà ga”.
Thẩm Gia Bình nghe nói Mộ Dung Phong muốn đích thân đi tiễn, vội vàng bố trí cảnh vệ. Không lâu sau Mộ Dung Phong quả nhiên xuống lầu, anh đã thay thường phục, nhìn thấy Hà Tự An, liền gọi nói: “Thúc An, đợi tôi về rồi nói”. Hà Tự An vâng một tiếng, chỉ thấy người hầu phòng xách túi hành lý lớn đặt lên xe trước, còn Mộ Dung Phong khoanh tay đứng ở phòng khách, lại thất thần nhìn trời mưa ngoài cửa.
Tĩnh Uyển tuy hạ quyết tâm, nhưng lúc phải đi trong lòng vẫn có cảm giác kỳ lạ. Từ sau ngày hôm đó, cô luôn tránh ở một mình với Mộ Dung Phong, còn Mộ Dung Phong cũng không hề ép buộc, mỗi lần gặp mặt anh cũng chỉ thất vọng nhìn cô, khiến cô không kìm được cảm thấy hoảng loạn. Tính cách cô vốn thoải mái, chỉ muốn giải quyết nhanh chóng, cho nên vết thương ổn hơn một chút liền quyết định lập tức về Càn Bình với cha.
Mưa bên ngoài vẫn như trút nước, vì mưa quá lớn, xe chầm chạp chạy trên đường, trên phố nước vẫn còn ngập rất nhiều, xe đi qua giống như thuyền rẽ nước. Mưa to như thế, trên phố ngay cả xe kéo cũng không thấy đâu, người đi đường càng ít hơn. Mộ Dung Phong tôn trọng Doãn Sở Phàn, nhất định mời ông và Tĩnh Uyển ngồi ghế sau, còn mình ngồi phía trước, trong khoang xe chật hẹp này, anh ngồi đối diện với Tĩnh Uyển, trái tim Tĩnh Uyển rối loạn đến cực điểm, cô đành quay mặt đi nhìn cảnh phố bên ngoài. Hai bên phố lướt qua giống như ngày cô đến. Thừa Châu, trước mắt chỉ có bóng tối phức tạp hỗn loạn, mơ hồ không rõ.
Đến nhà ga, Thẩm Gia Bình đã canh phòng sẵn ở sân ga, Mộ Dung Phong tiễn nhọ lên tận tàu, họ đặt hai phòng đặc biệt, Tĩnh Uyển rất sợ anh nói lời gì đó, cho nên vào phòng của cha, ngồi ở đó không về phòng mình. Thẩm Gia Bình mang hoa quả điểm tâm đến, nói: “Đây là Cậu Sáu dặn dò chuẩn bị cho Doãn tiên sinh và Doãn tiểu thư dùng dọc đường”.
Doãn Sở Phàn luôn miệng nói: “Không dám”. Mộ Dung Phong nói: “Lão tiên sinh hà tất phải khách sáo thế, sau này có cơ hội mời tiên sinh đến Thừa Châu, để Bái Lâm hết lòng tiếp đãi”. Hai người họ nói nhưng lời khách sáo, Tĩnh Uyển ngồi trên ghế sofa, chỉ nhìn sân ga bên ngoài cửa sổ, trên sân ga dày đặc cảnh vệ, tuy trong mưa lớn quần áo ướt đẫm vẫn đứng thẳng không động đậy, dáng vẻ quân nhân nghiêm khắc như thế khiến người ta cảm thấy kính nể. Mộ Dung Thần trước đây quân chế nghiêm khắc, đến tay Mộ Dung Phong cũng vẫn quân kỷ nghiêm minh, cho nên Thừa quân xưa nay rất có uy danh. Cô nghĩ đến câu nói đó của anh: “Anh sẽ đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trong lòng đau đớn đến kỳ lạ. Anh có hoài bão to lớn, cô biết nhất định có ngày anh sẽ làm được, lúc đó bản thân mình gặp lại anh, không biết thời thế đã như thế nào?
Hoặc là trải qua khói lửa chiến tranh mười năm, hai mươi năm, cô cũng chỉ có thể đứng một bên nhìn về cuộc đời của anh mà thôi.
Cuối cùng đến lúc tàu sắp chạy, Mộ Dung Phong nhìn cô, trong ánh mắt đó như có vạn lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, cáo từ xuống tàu. Qua cửa sổ cô nhìn thấy anh đứng trên sân ga, Thẩm Gia Bình che ô giúp anh, đằng sau anh đều là cảnh vệ, mưa như trút nước, ào ào giống như hàng ngàn sợi dây thừng quất xuống mặt đất. Tàu hơi rung rung, bắt đầu chầm chậm lăn bánh về phía trước. Anh đứng ở đó, không động đậy, Thẩm Gia Bình thì thầm gì đó vào tai anh, anh cũng coi như không biết, chỉ ngẩng mặt nhìn cô. Cô định rời khỏi cửa sổ, nhưng không biết vì sao mất hết sức lực, không nhúc nhích được, ngay cả ánh mắt cũng không thể di chuyển, cách cửa kính và màn mưa, vốn không nhìn rõ sắc mặt anh, cô mù mờ không biết đang nghĩ gì. Một bàn tay ấm áp đặt lên vai cô, cô quay đầu lại, Doãn Sở Phàn gọi một tiếng trìu mến: “Con gái”. Tàu đang tăng tốc, cô quay mặt lại, hình bóng anh đã tụt lại phía sau, càng ngày càng nhanh, càng ngày càng xa. Những cảnh vệ đó và anh đã thành một bóng đen mơ hồ, một lát sau tàu rẽ chuyến hướng, ngay cả sân ga cũng không nhìn thấy nữa, giữa trời đất chỉ còn lại màn mưa mênh mang.
Chương 15
Tĩnh Uyển vốn đang trong giai đoạn dưỡng thương, trên đường cực kì mệt mỏi, vất vả cô sợ cha lo lắng, cố gắng không để lộ ra, chỉ cắn răng chịu đựng. Về đến Càn Bình, xuống xe dường như mệt mỏi lên đến cực điểm, cô không muốn nói thêm một câu. Suốt dọc đường Doãn Sở Phàn lo lắng không nguôi, lúc xuống tàu mới thở phào một tiếng, nói: “Cuối cùng cũng đến nhà rồi”.
Tiếng cười ồn ào trên sân ga, lần này đi Thừa Châu, chỉ mấy tháng, nhưng cô lại có cảm giác như cả một đời, dường như tách biệt với thế giới này là một tầng sâu, đầu óc choáng váng, cô cố gắng lấy tinh thần xuống xe, chân đặt xuống đất, trái tim vẫn dập dềnh. Họ đã điện báo cho gia đình từ trước, lái xe trong nhà đón được họ mới thở phào mặt mày hớn hở nói: “Lão gia, đại tiểu thư, hai người đã về rồi, phu nhân sớm đã giục chúng tôi đi đón đó.”
Tĩnh Uyển cảm thấy mình yếu ớt đền cực độ, mệt đến cực độ, ngồi trên xe cô chỉ muốn mau về nhà, đến lúc về nhà vừa xuống khỏi xe bỗng nhiên như có sức lực cô bước nhanh vào phòng khách: “Mẹ, Mẹ!”. Doãn phu nhân đã ra đón, cô lao vào lòng mẹ, giống như đứa trẻ òa khóc thành tiếng. Doãn phu nhân ôm lấy cô, cô khóc lớn hu hu như thể muốn trút ra hết những đau đớn tủi nhục gần đây. Doãn phu nhân không kìm được rơi lệ nói: “Về là tốt rồi,về là tốt rồi…”
Cô ôm lấy cánh tay mẹ, giống như ôm lấy khúc củi mục cuối cùng, cứ thế khóc nức nở. Cô chưa từng yếu đuối thế này, cũng chưa từng sợ hãi thế này. Doãn phu nhân vỗ vỗ lưng cô giống như dỗ đứa trẻ, cô kiệt sức nức nở nói: “Mẹ, con sai rồi.”. Doãn phu nhân ngấn lệ nói: “Con gái lần sau không được dọa mẹ như thế, mẹ chỉ có con thôi”. Nước mắt cô cũng lã chã chảy xuống giọng nói của cô gần như không thể nghe thấy: “Mẹ, con cũng chỉ có mẹ”
Tối đó cô ngủ rất ngon, cơ thể quá mệt mỏi, trái tim cũng mệt mỏi, thế nên về đến nhà là ngủ một giấc thật sâu chẳng mơ mộng gì. Cô ngủ đến trưa mới dậy ăn cơm trưa. Doãn Sở Phàn rời Càn Bình đã lâu vừa quay về bận việc kinh doanh. Doãn phu nhân ở lại với con gái, cứ ngắm cô mãi, chỉ hỏi mọi chuyện cô ở Thừa Châu. Cô sợ mẹ lo lắng, chỉ kể chút chuyện không liên quan, hai mẹ con tíu tít trò chuyện, bỗng bác Ngô vào nói: “Phu nhân, tiểu thư, Hứa thiếu gia đến.”
Tĩnh Uyển chỉ thấy trái tim nhảy lên không biết là cảm giác gì, Doãn phu nhân đã nói: “Mau, mau đi gọi cậu ấy vào”. Tĩnh Uyển ngồi ở đó không động đậy. Hứa kiến Chương hôm nay mặc áo dài, người gầy đi rất nhiều, vẻ mặt cũng mệt mỏi, từ xa đã chào hỏi Doãn phu nhân: “Bác gái”. Doãn phu nhân nói: “Ngồi đi, bác lấy chút điểm tâm cho hai đứa”. Bà liền đứng dậy ra đi, khóe miệng Tĩnh Uyên hơi mấp máy, cô muốn giữ mẹ lại, cuối cùng vẫn không nói ra.
Hứa Kiến Chương nhìn cô từ phía xa, giữa họ chỉ cách nửa căn phòng, nhưng trong chốc lát bỗng trở nên xa vời, dường như cách cả ngàn núi vạn biển. Anh hơi cúi đầu, Tĩnh Uyển nghiêng mặt, trên cửa sổ rèm cửa nhung màu xanh lá thẫm rủ những tua màu vàng hoa lệ gió thổi qua chút ánh vàng lấp lánh, giống như mặt trời chiếu xuống dòng sông, sống động lấp lánh, trong mắt anh lại tràn ngập sự chán nản.
Trong tim cô chất chứa cảm giác rối ren phức tạp, vừa như thương xót lại vừa như oán trách càng giống như sự bị động khiến cô không thể nghĩ gì thêm, ép cô đến mức không thể thở được. Cuối cùng anh mở rộng nói khàn khàn: “Tĩnh Uyển xin lỗi”. Cô không nói gì một sức mạnh kì lạ ủng hộ cô, móng tay cô vô thức cào vào mặt nhung ghế sofa nhung tơ mịn và mềm, hơi ngứa. Rất lâu sau anh lại nói: “Hôm nay anh đến, chỉ là đến xin lỗi em, anh có lỗi với em, nhưng trong tình hình đó anh cũng không có cách nào khác. Anh không mong em tha thứ cho anh, cũng biết em không muốn gặp anh, nhưng nếu hôm nay anh không đến, kiếp này anh sẽ không yên tâm.
Gió rất mạnh, thổi rèm cửa phần phật, Tĩnh Uyển nghĩ đến phòng ngủ cửa Mộ Dung Phong, cũng là rèm cửa lớn kiểu Tây, dưới rèm cửa kết quả cầu bông, lúc không có việc gì làm cô thường đứng trước cửa sổ nghịch mấy quả cầu đó, quả cầu bông xoa trong lòng bàn tay hơi ngứa ngứa. Cô bất ngờ hoảng hốt, kì lạ sao bỗng nhiên bản thân lại nhớ đến điều này. Cô cho rằng Thừa Châu là ác mộng của mình, cả đời cũng không muốn nhớ lại. Cô hơi hoảng loạn mắt nhắm lại, Kiến Chương đang nhìn cô, ánh mắt đầy hối hận và đau khổ, vẻ mặt cô hơi thẩn thờ nhưng cô định thần lại nói: “Em không oán trách anh”.
Anh đứng đó không nhúc nhích, giọng nói vẫn nhỏ nhẹ: “Nhưng anh trách bản thân mình…”. Cô quay đầu lại một cách hơi tự lừa mình dối người: “Đây không phải lỗi của anh, em không trách anh”. Anh lại gọi một tiếng Tĩnh Uyển. Cô nói: “Là em không tốt sao có thể trách anh được”. Sắc mặt anh nhợt nhạt đến đáng sợ, tuy cô gần anh như vậy, nhưng lại xa vời không với nổi đến thế. Cô nói ra câu đó, lập tức cảm thấy hối hận, yên lặng ngồi đó chỉ nhìn anh xót xa. Anh nhớ lại lúc nhỏ mỗi khi cô gây chuyện hoặc là bị tủi thân gì, cô đều có dáng vẻ đấy, trái tim mềm nhũn, nước mắt chực trào ra, chỉ là cố gắng kìm nén.
Cô đi lên phía trước một bước, anh đưa tay ra, cô chẳng nghĩ gì nửa mà cũng chẳng muốn nghĩ gì nữa, nghĩ tiếp cô sẽ phát điên. Cô quay về rồi, cô muốn quay lại cuộc sống của mình. Cô lao vào lòng anh, giống như sợ một cái gì đó vô hình, vô tướng. Cô muốn sự bình yên ở anh, muốn anh cho cô sự thân thuộc, trên cơ thể anh có mùi thuốc quen thuộc không có mùi thuốc súng rất nhạt xen lẫn. Cô không thể nghĩ tiếp, nghĩ tiếp cô sẽ sợ hãi, cô ngẫn mặt lên mắt ngấn lệ, cô biết rõ là không thể quay lại, cô không thể quay lại quá khứ trước đây với anh, nhưng cô cứ cố chấp trong tuyệt vọng, cô nhất định muốn giống như trước đây, cô nhất định phải tiếp tục cuộc sống của mình.
Anh ôm chặt lấy cô như ôm bảo vật đã mất vừa tìm lại được, anh không ngờ có thể dễ dàng tìm được sự tha thứ của cô như vậy, một người ngạo mạn như cô, bây giờ lại yếu đuối đến mức không có một sức lực nào. Trong tim anh lờ mờ dấy lên nỗi sợ hãi, tất cả quá dễ dàng, không giống như sự thật. Anh cho rằng cả đời cô sẽ không tha thứ cho mình, nhưng bây giờ cô đang ở trong lòng anh. Anh ôm chặt lấy cô, dường như chỉ có thế mới chứng minh sự tồn tại của cô, cơ thể cô cứng đờ, có lẽ vì vẫn giận anh, anh thở dài hôn lên tóc cô: “Tĩnh Uyển….anh xin lỗi….”
Vẻ mặt cô ngơ ngẩn, nơi tan nát trong trái tim lại âm ỉ đau, cô ép bản thân mình không nghĩ nữa, thứ cô muốn chỉ là một cuộc sống yên bình. Anh sẽ đối xử tốt hết sức với cô có thể, anh sẽ đối tốt với cô, sau đó quên hết tất cả những khúc mắc, quên Thừa Châu, quên tất cả những thứ đã làm xáo trộn cuộc sống của cô.
Càn Bình giữa tháng bảy, tháng tám vô cùng nóng bức, Tĩnh Uyển tuy ham ngủ nhưng ngày hè nóng nực hơn 10 giờ nắng đã gắt, cả khu vườn cây cối tươi tốt, mơn mởn sum suê, cô dậy muộn nên không ăn sáng, chỉ lấy một miếng bánh ngọt vừa ăn vừa đọc báo Tây hôm nay. Trên báo còn phân tích sự xung đột giữa Thừa – Dĩnh tại đồn Trịnh Gia, trình bày bố phòng và thực lưc hai quân chính phủ ở ngoài đứng hòa giải… Cô nhìn thấy hai từ “Thừa quân” bất giác nảy sinh bực bội, vứt tờ báo sang một bên, Doãn phu nhân thấy cô đọc báo nên hỏi: “Báo viết gì sắp đánh nhau sao?”
Cô đáp: “Vẫn là mấy câu đó, chuyên gia phân tích quân sự nước ngoài nói, tuy cục diện rất căng thẳng nhưng chắc sắp tới sẽ không đánh nhau”. Doãn phu nhân nói: “Vậy thì tốt, đánh nhau thì loạn lạc, khiến lòng người bất an, bà lại nói: “Không phải con muốn đi dạo công viên với Kiến Chương sao, sao đến giờ vẫn chưa đi?”
Tĩnh Uyển nhìn nhìn đồng hồ rồi nói: “Bọn con đến Minh Minh Hiên ăn cơm, dù sao công viên mấy ngày lại dạo một lần, giống vườn hoa nhà mình có gì thú vị chứ?”. Minh Minh Hiên là một nhà hàng đồ Tây ở trong công viên Càn Sơn, rất nổi tiếng, Tĩnh Uyển rất thích món đào lạnh ở đó, cho nên Kiến Chương và cô hay hẹn nhau ở đó.
11 giờ cô mới ra khỏi nhà, đến cô công viên đã 12 giờ. Hôm nay là chủ nhật, Minh Minh Hiên sắp kín chỗ. Vì là khách quen nên bồi tây mặt mày tươi cười chào hỏi: “Doãn tiểu thư đến à, Hứa thiếu gia đã đợi cô từ lâu rồi đấy”.
Vì đến ăn đồ Tây nên Hứa Kiến Chương cũng thay âu phục, ánh nắng giữa trưa gay gắt chiếu xuyên qua cửa sổ kính màu tạo thành những vệt sáng đầy màu sắc, một vệt sáng màu vàng nhạt đang chiếu trên mặt anh anh mỉm cười nheo mắt lại, những sợi tóc đen tuyền trên trán anh thẳng tấp, nụ cười đó ấm áp khiến tim cô cảm thấy dịu dàng bình yên , cô cười nói: “Đợi em lâu lắm rồi phải không?”. Kiến Chương đáp: “Anh cũng mới đến một lúc thôi”.
Thức ăn mới đem lên một lát, bỗng nhiên tiếng ồn ầm ĩ bên ngoài truyền tới, trong nhà vốn có một đội nhạc Nga đang biểu diễn, âm thanh đó ồn ào đến nổi át cả tiếng nhạc, có người đang lớn tiếng nói gì đó, còn có người liên tiếp hỏi, rất nhiều người khác không kìm được ngó nghiêng bồi Tây vội vàng đi qua, Tĩnh Uyển gọi anh ta lại hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”
Bồi Tây đó đáp: “Báo mới đăng tin,Thừa quân tuyên chiến rồi.”
Trái tim cô chợt chùng xuống, không biết vì sao cơ thể bỗng đờ ra. Lúc lâu sau cô mới quay mặt lại nhìn Kiến Chương, trong ánh mắt ánh lên chút đau khổ, rất nhanh bị che lấp bởi sự ung dung. Giọng nói của anh dường như rất bình tĩnh: “Xem ra sẽ phải loạn lạc một thời gian”. Tĩnh Uyển cũng dần trấn tĩnh, nói như không có chuyện gì: “Thừa Dĩnh cũng không đánh nhau bốn năm nay rồi nhỉ”. Hai người họ vẫn cứ nói chuyện nhưng chiếc đĩa trong tay Tĩnh Uyển đã chọc nát miếng bánh mỏng mới mang lên.
Người ở bàn bên cạnh lớn tiếng thảo luận tình hình, những giọng nói liên tiếp truyền đến. Một người nói hành động này của Mộ Dung Phong không thông minh, Thừa quân vốn yếu thế, tuyệt đối không có lợi. Một người khác nói: “Dĩnh quân mới thắng An Quốc quân, sĩ khí đang lê , nếu không phải chính phủ nước ngoài điều đình thì đã tuyên chiến với Thừa quân tháng trước rồi”. Một người nửa lại có ý kiến khác: “Theo tôi thấy chưa chắc, Mộ Dung Phong mới kí hiệp ước với người Nga, quay đầu lại liền tuyên chiến với Dĩnh quân, ở giữa nhất định có điều bất thường”. Họ mồm năm miệng mười, nói mãi không thôi, Tĩnh Uyển vốn không muốn nghe, nhưng từng câu chữ giống như con rắn lạnh, uốn lượn luồn vào tai cô Tâm trạng cô rối loạn, bất giác thở dài một tiếng .
Hứa Kiến Chương bỗng nhiên gọi cô một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô ngẩng đầu lên nhìn anh sắc mặt vẫn khoan thai điềm tĩnh, vệt sáng ở cửa kính màu chiếu lên khăn trải bàn trắng muốt, ánh sáng nhảy múa, chập chờn như lụa, có chiếc bóng hơi lay động, là chiếc lá bên ngoài cửa sổ bị gió thổi bay vào. Trong phòng ăn vốn lắp quạt trần, lúc này cánh quạt lớn chầm chậm quay giống như mái chèo chậm rãi khuấy động không khí ngưng tụ. Cô có một dự cảm không lành, chiếc khăn ăn phẳng phiu thấm hết mồ hôi trong lòng bàn tay, mềm mại mà dẻo dai, cô cứ thế nắm chặt chiếc khăn ấy. Vẻ mặt Kiến Chương vẫn thế, giống như lúc nhỏ giúp cô hái bông hoa, anh nói: “Chúng ta kết hôn đi”
Chiếc quạt trần trên đầu phát tiếng ù ù khe khẽ, xung quanh là những tiếng cười nói nho nhỏ, xa xa có tiếng ve sầu. Cô không hề thấy nóng nhưng mồ hôi cứ thấm vào quần áo, dính vào người. Cảm giác hoảng hốt chạy qua tim cô, giống như lúc nhỏ tỉnh dậy, trong phòng tĩnh mịch, mẹ không có ở đó, vú nuôi cũng không có ở đó, bốn bề yên ắng, chiếc đồng hồ treo tường tích tắc tích tắc chạy, chỉ có một mình cô trong phòng hốt hoảng đến phát sợ.
Tiếng người nói hỗn độn, còn lờ mờ nghe thấy có người nói tiếng Nga, ngữ điệu cứng nhắc và uốn lưỡi, cô định thần lại mới nhận ra đó là chỉ huy đội nhạc Nga. Đội nhạc lại bắt đầu diễn tấu, bản “Souvenir D’enfance”, tiếng dương cầm rất rõ ràng, mỗi nốt nhạc giống như gõ lên tim cô, từng nhát từng nhát một. Cô nghe thấy giọng nói chậm rãi, rành mạch của mình vang lên: “Được thôi”.
Mọi việc của lễ đính hôn đều đã được chuẩn bị xong, lần trước vì Kiến Chương xảy ra việc mà lỡ mất, bây giờ lại bố trí lại cũng không mất công sức. Tuy bây giờ là xã hội kiểu mới, nhưng đối với chuyện hôn nhân đại sự, vẫn khó tránh khỏi theo tục cũ, hai gia đình đều chuẩn bị sính lễ và của hồi môn.
Tĩnh Uyển không hề biết kết hôn lại phải chuẩn bị nhiều thứ như vậy, tuy cha mẹ giúp cô lo liệu nhưng cô rất nhiều đồ vẫn phải tự cô chọn lựa. Sáng sớm hôm đó đích thân Kiến Chương lái xe đến, đem hai người đến Tây Đại An xem nhẫn kim cương.
Cửa hàng đồ Tây vốn rất ít khách, đặc biệt là sớm thế này, hai người đi vào trong chỉ có mấy người làm thuê Ấn Độ, cho nên được họ chăm sóc rất nhiệt tình. Người bán hàng lấy đủ mọi loại nhẫn kim cương cho họ xem, lại nói: “Nếu không thích ở đây chúng tôi còn kim cương thô, có thể đặt làm nhẫn”. Vì là đồ dùng để kết hôn, cho nên Tĩnh Uyển rất coi trọng, đặt trước mắt lựa chọn mấy chiếc nhẫn đó đều có kiểu dáng bình thường, chọn mãi cũng không có chiếc nào vừa ý. Mấy người bán hàng lại lấy đá kim cương ra cho họ xem, những viên đá kim cương đó đặt trên lớp lụa nhung đen, lấp lánh giống như ánh sao trong đêm. Người bán hàng thấy là khách sộp nên rất nịnh bợ, nói: “Chỗ chúng tôi có một viên yến vàng rất đẹp, kim cương vàng vốn rất hiếm, viêm kim cương vàng ba cara này càng hiếm hơn”.Vừa nói vứa lấy ra một chiếc hộp hình quả đào, nho nhỏ mở ra cho họ xem.
Tĩnh Uyển nhìn viên kim cương yến vàng đó, lòng không kìm được nghĩ đến chiếc vòng Mộ Dung Phong từng tặng cô, ánh sáng lấp lánh rực rỡ ấy, gần như làm người ta chói mắt. Gương mặt cô bất giác đờ đẫn, chỉ trong giây lát đó Kiến Chương đã thấy vẻ mặt của cô, anh cũng đã nhớ ra, sau khi cô bị thương lần đầu gặp cô, trên tay cô đeo một chiếc lắc tay khảm kim cương yến vàng, dưới ánh đèn óng ánh như ánh sao, lóng la long lánh. Lúc đó anh chỉ lo lắng cho vết thương của cô, không hề nghĩ nhiều, nhưng bây giờ nhớ lại, ánh sáng của sợi dây chuyền đó dường như đang nhấp nháy trước mắt.
Anh nhớ đến lần về nước năm ngoái, cô nhìn thấy một vị vương phi đeo chiếc vòng tay nạm kim cương đó trên một tạp chí tiếng Anh, cứ khen ngợi mãi. Nhưng loại đá quý hiếm giá thành đắt đỏ này, các thương nhân bình thường cũng không mua nổi, anh nhìn ánh sáng lấp lánh của viên yến vàng , trái tim rơi thẳng xuống, ở nơi sâu thẳm trái tim cuộn trào sự lạnh lẽo, tuy là giữa hè nóng bức, nhưng bàn tay trong chốc lát lại lạnh đi.
Tĩnh Uyển mỉm cười nói với anh: “Em không thích kim cương vàng kiểu này, nhìn tối tối không bằng kim cương thường”. Anh cũng mỉm cười với cô, cô tinh mắt bỗng nhiên phát hiện trên tay người bán hàng còn một chiếc hộp liền hỏi: “Cái này cũng kim cương vàng sao?”. Người bán hàng đó nói: “Đây là kim cương hồng mấy ngày trước có một vị khách thích nó, vì chê khảm không đẹp, thay đổi kiểu dáng khảm lại, đã trả tiền rồi”. Tĩnh Uyển ồ một tiếng người bán hàng mở hộp ra cho họ xem, đó là một viên kim cương khoảng ba cara, khảm khắc tinh xảo, Tĩnh Uyển vừa nhìn đã thấy thích nó.
Kiến Chương thấy cô thích liền bảo người bán hàng mang đến, thử đeo lên tay vô cùng vừa vặn, người bán hàng cười nói: “Ngón tay tiểu thư thon dài, cho nên đeo kiểu dáng này là đẹp nhất”. Tĩnh Uyển càng nhìn càng thích, Kiến Chương nói: “Đây là đồ người ta đặt, vậy chúng tôi đặt một chiếc theo mẫu này nhé”.
Người bán hàng đó cười nói: “Ngài biết đấy loại kim cương này đắt hàng mà lại khan hiếm. Hiện nay kim cương hồng và kim cương ngọn lửa rất hiếm, theo tôi được biết nguồn kim cương này trong nước bị quản lí chặt, nếu ngài muốn, chúng tôi đánh điện đến trụ sở của hàng, chuyển hàng từ nước ngoài về, chỉ phiền ngài phải đặt tiền trước”
Kiến Chương hỏi: “Tiền đặt cọc không thành vấn đề, có điều là cần bao nhiêu thời gian?”. Người bán hàng đó đáp: “Vốn có thể chuyển bằng đường sắt nhưng bây giờ Thừa Dĩnh khai chiến nên phải vận bằng đường biển, nếu nhanh thì ba tháng kim cương mới tới nơi.
Tĩnh Uyển vừa nghe thấy liền rất thất vọng, hôn lễ của họ sẽ tổ chức vào tháng sau, Kiến Chương vội hỏi: “Không thể nhanh hơn sao?”. Người bán hàng đó xua tay tỏ vẻ không có cách nào. Tĩnh Uyển nói: “Vậy thì thôi đi em chọn cái khác là được”. Cô tháo nhẫn ra đặt lại vào hộp, viên kim cương hồng đó ánh màu đỏ nhạt, giống một nụ hồng, khiến người ta không thể rời mắt.
Kiến Chương thấy cô luyến tiếc, không kìm được hỏi người bán hàng: “Thật sự không có cách nào khác sao?”
Người bán hàng đó ngẩng đầu lên nói: “Trùng hợp thật người đặt chiếc nhẫn này đến rồi, hay là hai người thương lượng xem?”
Hứa Kiến Chương ngẩng đầu lên nhìn, thấy một người thanh niên mặc âu phục, khí độ phi phàm, tuy tướng mạo không đặc biệt tuấn tú nhưng có phong thái ung dung, khiến người ta vừa nhìn đã cảm thấy anh ta rất xuất sắc. Tĩnh Uyển cũng nhận ra người này không tầm thường, lại nghe người bán hàng đó chào hỏi: “Trình tiên sinh”. Kiến chương thấy một nhân vật như vậy, rất muốn thương lượng với anh ta, liền nói rõ ngọn nguồn sự tình. Vị Trình tiên sinh này là người rất phóng khoáng, lập tức liền đồng ý: “Hai vị đã cần dùng gấp, đương nhiên tôi có thể giúp hai người hoàn thành tâm nguyện”. Kiến Chương quá đỗi vui mừng, luôn miệng cảm ơn, Tĩnh Uyển cũng thấy mừng vì may mắn bất ngờ.
Trình tiên sinh đó vừa phong độ lại vừa khiêm tốn. Kiến Chương rất cảm kích sau khi anh ta đi rồi liền nói với Tĩnh Uyển: “Nghe giọng nói của anh ta không giống người bản địa”. Tĩnh Uyển cũng thấy người này xuất sắc như vậy, không hề tầm thường. Người bán hàng đứng bên cạnh nói xen vào: “Anh ta chính là em ruột của trưởng tài vụ tiền nhiệm họ Trình”
Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc lớn có tiếng,không chỉ ở Ủng Nam mà còn lừng lẫy tiếng tăm khắp hai mươi tỉnh giang nam, có câu nói, Ủng Nam nắm tiền tài Giang Nam, họ Trình nắm tiền tài Ủng Nam, hai mươi mốt tỉnh Giang Nam, tuy An Quốc quân của Khương Song Hỷ và Hộ Quốc quân của Lý Trọng Niên mỗi người chiếm một phương, nhưng với họ Trình ở Ủng Nam đều phải e dè. Họ Trình là gia tộc lớn ở Giang Nam, trong gia tộc ngoài những thân sĩ nổi tiếng khắp các tỉnh Giang Nam, con cả Trình gia Trình Doãn Chi từng làm trưởng tài vụ suốt hai nhiệm kì, tuy chỉ là tài vụ trưởng nhưng vì thao túng nội các, là gia đình rất có danh tiếng. Kiến Chương nghe nói là người của Trình gia, “ồ”một tiếng hiểu ra luôn miệng nói: “Chẳng trách ,chẳng trách”.