Họ chuẩn bị đồ đạc mấy ngày liền ,truớc khi kết hôn bận toàn chuyện vặt vãnh, bận bịu như thế nên từng ngày qua rất nhanh.Chỉ là thời cuộc biến động cuộc chiến lần này của Thừa Dĩnh rất khốc liệt, hàng ngày trên các báo đều đăng tình hình tiền tuyến, vì chiến sự khốc liệt Thừa quân quyết chiến nhiều ngày với Dĩnh quân từ Dư Gia Khẩu đến Lão Minh Sơn, hai bên quân số bị chết,bị thương không ngừng tăng, giằng co không từ bỏ.
Tĩnh Uyển tuy không quan tâm thời cuộc nhưng Doãn Sở Phàn vẫn thỉnh thoảng đọc báo, vừa ngậm tẩu thuốc nói: “Xem tình hình còn đánh nữa, cứ tiếp tục thế này chỉ sợ gạo tăng giá”. Doãn phu nhân nói: “Kệ họ đánh sao, không lẽ đánh đến cả thành Càn Bình này sao? Doãn Sở Phàn nhả một hơi thuốc nói: “Phu nhân bà không hiểu được đâu, không sợ ngộ nhỡ chỉ sợ chẳng may, tích trữ chút lương thực còn hơn không chuẩn bị gì”. Doãn phu nhân nghe ông nói như vậy đâm ra lo lắng: “Nếu thật sự đánh đến Càn Bình, vậy phải làm thế nào, hay là chúng ta đến phía nam tránh.”
Doãn Sở Phàn cười ha ha nói: “Mộ Dung Phong muốn đánh đến Càn Bình, e rằng cũng chưa dể dàng như vậy”. Tĩnh Uyển tựa vào ghế sofa, cầm con dao nhỏ gọt hoa quả, ngây người ra chút nữa cắt vào ngón tay mình. Doãn Sở Phàn lật báo, nói: “Bà xem Thừa quân mất Cẩm An lại không đánh hạ Cát Chẩn, theo tôi thấy Thừa quân có thể giữ Dư Gia Khẩu hay không vẫn chưa biết trước được.” Cô vốn đã dừng lại thấy cha làm như vô ý liếc về phía mình, liền vội vã tiếp tục gọt hoa quả, cô gọt lớp vỏ nông mà mỏng, từng vòng vòng chầm chậm tuột khỏi ngón tay , nước quả lạnh lẽo chảy trên tay, dính dính cô không dám nghĩ gì, hết sức tập trung vào việc gọt hoa quả, như thể đó là việc quan trọng nhất trên đời này.
Đến giữa tháng Tám ngày kết hôn gần kề, hôm đó vốn là ngày đại lễ, cho nên từ sáng sớm trên dưới Doãn gia đều bận rộn. Tĩnh Uyển cũng dậy từ rất sớm, người trong nhà đều bận bù đầu, chỉ một mình cô là không phải làm gì. Ăn sáng xong cô đành ngồi xem mẹ kiểm kê danh sách khách mời. Khắp trong ngoài nhà đã trang trí như mới, người làm đang treo dây màu, cờ màu trong không khí rất rộn rã. Hoa cỏ trong vườn sum suê xanh tươi tốt, ánh nắng chiếu vào dường như phát sáng lấp lánh .
Tĩnh Uyển không có việc gì làm bèn vào trong vườn, trong vườn có một cây nhài đang nở rộ hoa, hương thơm ngào ngạt, những bong hoa trắng nhỏ xinh, giống một chiếc cúc bạc, tinh xảo nhỏ nhắn điểm xuyết trong lá. Cô tiện tay háimột cành, định cài lên tóc, bác Ngô ở bên cạnh cười nói: “Hôm nay là ngày đại hỷ, tiểu thư phải cài hoa bên cạnh mới có không khí vui mừng chứ.” Tĩnh Uyển sững sờ lại bỏ hoa xuống.
Hôm đó tuy không mời khách nhưng Doãn gia là gia tộc lớn ở Càn Bình, cho nên trong nhà vẫn rất náo nhiệt. Hơn nữa dù họ là gia đình kiểu mới, nhưng ngày này con gái cũng không tiện lộ mặt nên Tĩnh Uyển ở một mình trên lầu.
Cô nghe tiếng cười nói ồn ã dưới lầu, trong lòng buồn bực khó nói, ôm gối ngồi trên giường thất thần, ngay cả bản thân cũng không biết mình nghĩ gì. Trên cây bên ngoài cửa sổ treo đầy cờ nhỏ đủ màu tung bay trong gió khiến cô nhớ đến lúc ở Nga, vào dịp giáng sinh trên cây thông treo đầy đồ chơi nhỏ đủ loại, rực rỡ sắc màu, tràn ngập trong tầm mắt, sự náo nhiệt đó khiến người ta không thở nổi.
Cô xuống giường mở chiếc hộp màu tím ra, chiếc đồng hồ đó lặng lẽ nằm trong hộp. Cô lấy nó ra bất giác dùng hai ngón tay lướt qua hai chữ “Bái Lâm” đó, hai tiếng ấy dường như muốn bật ra khỏi bờ môi. Đồng hồ tích tắc tích tắc giống như nhịp tim cô rõ ràng đến mức khiến cô phải sợ hãi. Cô chậm rãi đóng chặt nắp, nhớ lại lúc chia tay sau lần đầu gặp mặt, trong bóng tối anh quay đầu lại, còn trước mắt cô nhập nhòa, vốn không nhìn rõ mặt anh, bên ngoài cửa sổ sân ga sáng đèn, những tiếng bước chân hỗn độn. Tại sao anh để lại đồng hồ cho cô, cuộc gặp gỡ kinh hoàng đó, anh để lại cái này cho cô – là ý trời sao? Nhưng anh và cô rõ ràng không liên can với nhau, càng không thể có tương lai.
Tiếng bác Ngô vang lên bên ngoài: “Tiểu thư, tiểu thư…” Cô tự dưng giật mình, tiện tay nhét chiếc đồng hồ xuống gối, hỏi: “Vviệc gì thế?”. Bác Ngô đi vào nói: “Có bức thư gửi cho tiểu thư”. Cô thấy có một bức thư từ nước ngoài, bên trên chỉ viết : “Gửi tiểu thư Doãn Tĩnh Uyển”. Thư dán rất kín cô nhất thời không để ý, vì các bạn học của cô thường sai người gửi thư như thế này.
Bác Ngô cũng tưởng đó là một bức thư bình thường, ai ngờ Tĩnh Uyển vừa mở ra xem, sắc mặt liền trắng bệch, đưa tay ra nắm lấy cánh tay bác Ngô: “Người đưa thư đâu?”. Bác Ngô thấy tay cô lạnh ngắt, giật mình nói: “Ở dưới lầu”. Trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cô cố gắng trấn tĩnh “ồ” một tiếng nói: “Cháu còn có mấy lời nhờ anh ta chuyển đến Vương tiểu thư, cháu xuống dưới gặp anh ta chút”. Cô soi gương sửa tóc, thấy tay mình đang run lẩy bẩy, may mà bác Ngô tưởng là người đưa thư của Vương tiểu thư thật, liền nói: “Vậy tôi đi lấy giúp tiểu thư hai đồng tiền”. Tĩnh Uyển hỏi: “Lấy hai đồng tiền làm gì?”. Bác Ngô cười: “Tiểu thư à, hôm nay cô vui đến mức hồ đồ rồi, người hầu của Vương tiểu thư đưa thư đến, nên thưởng cho người đó hai đồng chứ”.
Tĩnh Uyển giờ mới tĩnh táo lại, cũng cười cười nói: “Không cần đâu ở đây cháu còn mấy đồng lẻ, phía trước đông khách , bác bảo anh ta đến vườn hoa đợi cháu”. Bác Ngô vâng lời liền đi ra, Tĩnh Uyển chỉnh lại quần áo, cố gắng trấn tĩnh rồi mới xuống lầu. Khách khứa đều ở phía trước, trong phòng khách rất im ắng chỉ có một người đàn ông lạ mặt đứng đó, người đó thấy cô từ xa đã cung kính hành lễ.
Tĩnh Uyển nói: “Không cần khách sáo”. Người đó nói: “Tôi họ Nghiêm, Doãn tiểu thư , có một thứ muốn mời cô xem qua”. Nói xong anh ta đưa cho cô một hộp gấm bằng hai tay. Tĩnh Uyển lòng rối như tơ vò, còn hơi chần chừ, người đó đã mở nắp hộp ra, hóa ra bên trong lại là một cành lan Thiên Ly. Khóe miệng cô hơi mấp máy, người đó đã nói: “Doãn tiểu thư chắc đã nhận ra loại hoa lan này, mười sáu tỉnh phía Bắc chỉ có một cây lan duy nhất. Người đó tuy mặc thường phục nhưng vẻ mặt cảnh giác, rõ rang là người rất nhanh nhẹn, lanh trí. Cổ họng cô khô rát: “Anh có việc gì không?”. Khẩu khí của người đó vẫn rất cung kính: “Mong Doãn tiểu thư nể mặt cây lan Thiên Ly này có thể đi chỗ khác nói chuyện không?”
Cô nghĩ một lát, cuối cùng hạ quyết tâm: “Được thôi”. Người đó kính cẩn nói: “Xe của chúng tôi ở bên ngoài, nếu tiểu thư thấy không tiện có thể đi xe của mình”. Tĩnh Uyển nói: “Không cần”. Cô không hề nói thêm gì chỉ đi xuống lầu nói với bác Ngô mình phải ra ngoài một chuyến, bác Ngô nói: “Ôi chao tiểu thư, hôm nay là ngày đại hỷ đó”. Tĩnh Uyển nói: “Vương tiểu thư ốm nặng, dù thế nào cháu cũng đi gặp mặt cô ấy”. Bác Ngô biết tính khí cô, đành lấy áo khoác và ví cho cô rồi tiễn cô ra ngoài.
Cô lặng lẽ ra khỏi nhà vì trong nhà khách khứa đông nên bên ngoài đậu rất nhiều xe. Cô để Nghiêm tiên sinh đó dẫn đường, lên một chiếc xe rời đi, cũng chẳng ai chú ý đến cô. Chiếc xe đó chạy một mạch ra khỏi thành, tim cô đập thình thịch như trống đánh liên hồi. Cảnh vật bên ngoài cửa xe lướt qua, xe đi rất nhanh cô hỏi: “Đi dâu vậy?”. Vị Nghiêm tiên sinh đó nói: “Đến Càn Sơn”. Cô “ồ” một tiếng rồi không hỏi nữa. Càn Sơn nằm ở ngoại ô Càn Bình người giàu trong Càn Bình đều có biệt thự ở Càn Sơn, học theo cách của người Tây chủ nhật cả gia đình ra khỏi thành lên núi nghỉ ngơi. Hôm nay vừa hay là chủ nhật,nên con đường lên Càn Sơn xe đi đi lại lại như mắc cửi.
Xe lái thẳng lên núi, vùng đó toàn biệt thự lác đác xen giữa núi, mỗi căn cách nhau rất xa, dưới ánh nắng chỉ thấy nhà trắng, mái đỏ kiểu Tây lướt qua cửa xe. Đường núi ngoằn ngoèo, tuy đường bằng phẳng nhưng trái tim của Tĩnh Uyển chỉ không ở yên, giống như linh cảm được chuyện gì đó. Cô chỉ mong đi hết con đường này, nhưng cũng thầm mong tốt nhất vĩnh viễn không đi hết đoạn đường này.
Cuối cùng cũng đến nơi, một biệt thự nằm rất sâu, xe đi thẳng vào trong, hai bên đường đều là cây cối cao ngắt thuận theo thế núi lên trên, rẽ mấy lần mới nhìn thấy căn nhà kiểu Tây thấp thoáng sau tán cây xanh. Tĩnh Uyển biết rõ nơi này không giống với các biệt thự nơi khác ở Càn Sơn, nhưng trái tim chỉ thấp thỏm không yên, đến tận lúc xuống xe cảm giác do dự và bất an không thể giải thích như hình với bóng.
Người hầu mở của xe giúp cô, vị Nghiêm tiên sinh đó đi trước dẫn đường, trong biệt thự bài trí rất tiện nghi, nhưng cô nào có tâm trạng quan sát kỹ, chỉ thấy trong phòng khách có người đi ra, hình bóng đó rất quen thuộc, trái tim cô trùng xuống, cũng không biết là vui hay buồn, khẽ gọi một tiếng “Hà tiên sinh”. Cô dừng lại một lát rồi lại nói: “Hóa ra là anh”
Hà Tự An vẫy vẫy tay, cảnh vệ họ Nghiêm đó cũng đi ra ngoài. Hà Tự An rất khách sáo hành lễ nói: “Doãn tiểu thư vì chúng tôi không tiện lộ mặt nên mới dùng cách này mời cô đến, thất lễ rồi mong cô tha thứ. Tĩnh Uyển mĩm cười nói: “Chiến sự Thừa – Dĩnh đang quyết liệt anh mạo hiểm đến Càn Bình chắc có việc quan trọng nhưng không biết Tĩnh Uyển có giúp được gì không?”. Hà Tự An cười khổ sau đó thở dài một tiếng. Tĩnh Uyển biết anh là cánh tay đắc lực của Mô Dung Phong thấy anh buồn bã không vui, mặt mài chau lại bất giác hỏi: “Cậu Sáu sao rồi?”
Hà Tự An không trả lời chỉ đưa tay ra phía căn phòng ở hành lang. Tim Tĩnh Uyển nhói lên, cô không dám nghĩ gì chỉ chậm rãi bước đến, cuối cùng mở cửa phòng ra, cảm thấy hơi thở dường như tắc nghẹn, cả cơ thể cứ đờ ra.
Trong giây lát cô, nghi ngờ mình nhìn nhầm, nhưng rõ ràng như thế. Tuy ánh sáng trong phòng âm u anh mặc một chiếc áo dài, dáng vẻ giống con cái nhà giàu bình thường, nhưng hình bóng lại quá đỗi quen thuộc, ánh mắt vẫn như thế, trong đôi mắt ấy lóe lên những tia nắng rực rỡ, lại như có những ánh sao mờ xanh đang nhấp nháy.
Giống như dời núi lấp bể, tay cô đặt trên ngực, vì trái tim ở đó đập gấp như thế, giống như có thứ gì muốn nhét vào trong, cây lá bên ngoài cửa sổ lay động trong gió, còn cô giống chiếc lông vũ trong gió lớn, bất đắt dĩ lại bị kéo vào vòng xoáy đó. Cô biết tất cả đều là thật, nhưng xung quanh yên ắng, bóng cây in trên nền nhà, tán cây lưa thưa xen kẽ, giống như cảnh quay lặng như tờ trong phim, còn anh chỉ im lặng đứng ở đó, trong ánh mắt có sự điên cuồng và nồng cháy không thể cưỡng lại. Cô đứng đó như ngẩn ngơ.
Giọng nói của cô xa đến mức không giống như của mình: “Anh điên thật rồi”.
Anh mỉm cười, nụ cười của anh lẫn vào trong bóng cây, giống như một tia nắng nắng ngẩn ngơ. “Anh điên thật rồi mới thích em đến điên như vậy.”
Câu nói này anh đã từng nói lúc ở Thừa Châu, trên môi cô vẫn còn lưu lại sự nồng nhiệt hôm đó của anh, mùi hương bạc hà, mùi khói thuốc súng nhàn nhạt đó là mùi vị quen thuộc nhất. Anh gần cô như thế, chân thật như thế nhưng dường như ở giữa là cả một chân trời không thể vượt qua, cô nhìn anh giọng nói đượm sự bất lực: “Anh không muốn sống nữa à?”. Anh là chủ soái Thừa quân, tình hình chiến sự Thừa – Dĩnh gay go như thế anh lại dám đến chỗ của địch. Nếu bị phát hiện…
Anh chầm chậm khép lại nụ cười: “Tĩnh Uyển anh muốn để cho em biết, em không thể lấy người khác. Anh lấy mạng mình ra để gặp em, anh chỉ cần em đi theo anh”. Cô yếu ớt đến cực điểm, cô luôn cảm thấy bản thân mình rất kiên cường, nhưng thời khắc này chân lại mềm nhũn, như đứng không vững. Giọng nói cô nhẹ têng mà yếu ớt: “Em không thể”.
Anh nắm lấy tay cô mạnh đến mức khiến cô đau đớn, nhưng sự đau đớn đó kèm theo chút vui vẻ khó nói thành lời, giống như mặt băng nứt ra những đường rạn nhỏ cô không dám đối diện với sự sụp đổ vang dội đó. Cô chưa từng bất lực như bây giờ, chưa từng hoảng loạn như thế, chỉ tuân theo bản năng: “Anh mau đi đi, em xin anh mau đi đi, em sắp kết hôn rồi”. Anh nhìn thẳng vào cô: “Tĩnh Uyển đời này em chỉ có thể gả cho anh, anh muốm em gả cho anh”. Rồi anh ôm cô thật chặt vào lòng . Cảm giác quen thuộc mà chân thật bao vây lấy cô, cô yếu ớt ngẩn đầu lên, trong mắt anh chỉ có bóng hình cô, chỉ có cô. Hơi thở anh ấm ấm phả vào mặt cô, giọng nói anh ù ù vang lên bên tai cô: “Tĩnh Uyển đi theo anh”. Lý trí còn sót lại của cô đang đau khổ giằng xé: “Anh mau mau đi đi, nếu để người ta biết thân phận anh…”. Trong mắt anh dường như có vẻ kì lạ, rực rỡ giống như tia nắng: “Em đang lo cho anh sao?”. Cô không hề lo lắng cho anh, cô tự lừa mình dối người lắc đầu, anh bỗng hôn cô điên cuồng, nụ hôn của anh gấp gáp mà say đắm, đem theo sự cưỡng đoạt không cần nghi ngờ, nuốt lấy hút lấy hơi thở yếu ớt của cô. Hơi thở cô hỗn loạn, cả thế giới chỉ có hơi thở của anh lấp đầy tất cả, môi anh như ngọn lửa, anh nhen lên ngọn lửa trong tim cô. Xa cách lâu như thế …dường như đã xa anh lâu lắm, anh nhớ nhung cô, khát khao cô như vậy. Gương mặt cô nóng bừng, cả cơ thể như đang bốc cháy, cô khát khao theo bản năng, sự nồng nhiệt lạ lẫm nhưng lại quen thuộc, sự nồng nhiệt có thể đốt cháy tất cả như thế. Cơ thể anh như chấn động, chuyển động càng nóng bỏng, càng sâu hơn. Tay anh bỏng rát, giống như que hàn, in vào đó, ở đó liền có một cảm giác bỏng rát đau đớn, anh hút hết sự ngọt ngào trên trán cô, trong lúc vội vã anh không mở được hàng cúc tròn trên áo cô, anh lập tức kéo bung ra, cúc đứt vung vãi trên đất, vang lên tiếng roạt roạt, cô bỗng sực tĩnh, đẩy mạnh anh ra.
Hơi thở của anh vẫn gấp gáp, cô kéo lấy cổ áo mình, như thể kéo lấy trái tim mình, cô chỉ biết hoảng hốt và sợ hãi, cô cảm thấy sợ anh, sợ hãi bất cứ đụng chạm nào của anh. Cô thu mình lại anh đưa tay ra, cô nghiêng đầu đi theo bản năng, cô dũng cảm, cô không hề sợ anh mà sợ sự nồng nhiệt anh mang đến cho cô. Sự nồng nhiệt đó không thể chấp nhận được, lại không có cách nào khống chế, cô nghĩ đến Kiến Chương. Gần như tuyệt vọng, Kiến Chương không thể cho cô sự nồng nhiệt đó nhưng Kiến Chương có thể cho cô hạnh phúc. Hạnh phúc mà cô muốn, cô luôn biết bản thân mình cần gì, xưa nay cô đều có thể bình tĩnh mà nắm giữ.
Cô ngẩn đầu lên anh đang nhìn cô, trong đôi mắt ấy cháy lên sự khát vọng và đam mê không bao giờ hết, trái tim cô tê dại đau đớn, nhưng giọng nói cô đã trấn tĩnh, giống như ngay cả bản thân cô cũng tin rằng như thế: “Em không yêu anh, em càng không thể đi với anh”.
Anh nhìn cô không thể tin được, gần như khiến cô chột dạ, giọng nói của anh khàn đi: “Em không yêu anh ư?”. Trên trái tim cô chằng chịt vết sẹo ngang dọc, trong chốc lát dường như đau đớn khiến người ta ngạt thở. Giọng nói của anh bình bình, nhưng kèm theo sự giận dữ đáng sợ: “Em vẫn còn nói với anh một câu như thế sao? Nghe nói em kết hôn anh liền đến đây như phát điên. Không quan tâm đến tính mạng, không quan tâm đến chiến sự nước sôi lửa bỏng ở tiền tuyến, không quan tâm đến một nửa giang sơn, vậy mà em nói với anh một câu như thế sao?”.
Cô cố chấp quay mặt đi, khuôn mặt lặng lẽ nở nụ cười: “Đúng thế em không yêu anh”. Anh im lặng một lúc lâu, mới nói: “Em nói như vậy anh cũng không có cách nào, nhưng anh…nhưng anh…”.Anh lặp lại hai lần, cuối cùng không nói ra được vế sau, chỉ quay mặt đi.
Chương 17
Gió bên ngoài rất mạnh, buổi chiều trong núi, trong bóng râm của cây cối, trên cửa kính chỉ có hình bóng cây cối lay động, giống như hoa tuyết trắng rụn vỡ rơi trên cửa sổ trong mùa đông. Trong ánh sáng ảm đạm, gương mặt anh hiện lên không rõ ràng, nhưng cô biết anh đang nhìn mình. Anh không màng tất cả đến đây, còn cô lại không thể không màng tất cả mà theo anh. Con đường phía trước không thể biết được, bước một bước này chính là thịt nát xương tan.
Giọng nói của anh nhẹ bẫng như mơ: “Tĩnh Uyển, trời tối anh phải đi rồi, chỉ có mấy tiếng, em có thể ở lại cùng anh không?”
Đáng lẽ cô phải lắc đầu, việc này nên mau chóng kết thúc, anh nên mau chóng rời khỏi đây, cô nên về nhà. Nhưng không hiểu vì sao khi anh nhìn cô như thế, cô lại mềm lòng, cuối cùng vẫn gật đầu.
Cô không biết anh đem theo bao nhiêu người, nhưng trong thành Càn Bình, trong khu vực Dĩnh quân, đem nhiều người hơn nữa cũng chỉ là trứng chọi đá. Giữa đám cây cối ngoài cửa sổ thỉnh thoảng lướt qua đám cảnh vệ, ánh nắng chiếu vào song cửa sổ, đã sang buổi chiều, cúc áo cô anh đã nhặt lên hết, đặt trên bàn trà, nó giống như những ngôi sao vỡ. Không có kim chỉ, may mà trong túi xách có mấy cái kim băng, tuy quần áo đã được đính vào, nhưng những chiếc kim băng bạc đó trông rất buồn cười. Xưa nay cô rất coi trọng hình thức, thấy thế hơi chau mày, anh đã thấy cô không vui, bèn nảy ra ý nghĩ, anh ngắt mấy bôong hoa nhài trên bàn trà xuống, cài từng bông lên kim băng, trong chốc lát kim băng đã bị che đi, chỉ còn lại những cánh hoa trắng muốt nở bung trên áo. Cô mỉm cười lấy từng bông cài lên kim băng, anh ngồi trên sofa ở xa xa, im lạng nhìn cô.
Hoa nhài từ từ nở trên áo, giống như tơ lụa mềm mại, nhưng rõ ràng là thật, hương thơm lan tỏa. Anh mỉm cười nói: “Thế này đẹp thật, lại có phong thái của quần áo kiểu Tây”. Cô chỉnh lại cúc áo, mỉm cười nói: “Em cũng cảm thấy rất đẹp”. Anh lấy một bông hoa nhài, cài lên tóc cô, bông hoa trắng nho nhỏ trên ngón tay anh, bất giác người ta nghĩ đến việc không may mắn. Chiến sự cấp bách thế, cô biết rõ sau khi anh quay về nhất định phải đích thân chỉ huy tiền tuyến trong mưa bom bão đạn, tim cô bỗng nhói lên xót xa nói: “Em không cài nữa, em không thích hoa này”. Anh cười nói: “Anh không kiêng kị, em còn phong kiến hơn anh”. Cuối cùng anh vẫn cài nhẹ lên tóc cô.
Cô chầm chậm vuốt chiếc khăn tay của mình, mùi hương hoa nhài thoang thoảng trên áo, vì ở trong núi nên ánh nắng lúc ba, bốn giờ chiều trắng nhạt như bạc, bên ngoài cửa sổ có tiếng gió ào ào, lướt qua rừng thông như sấm rền. Cô mỉm cười nói: “Em đói rồi”. Mộ Dung Phong sững lại một lúc, hai tay vỗ một cái, Thẩm Gia Bình bên ngoài lập tức đi vào, Mộ Dng Phong hỏi: “Có gì ăn được không?”.
Trên mặt Thẩm Gia Binh lộ lên vẻ khó xử, họ tuy cẩn thận bố trí rồi mới đến nhưng vì hành tung bí mật hơn nữa chỉ tạm thời dừng chân ở đây, những người hầu như nhà bếp đã cho rời đi. Tĩnh Uyển đứng dậy nói: “Em đi xem có gì không, nếu có điểm tâm, uống bữa trà chiều cũng được mà”. Mộ Dung Phong không muốn rời xa cô dù một phút: “Anh đi cùng em”.
Ở đây vốn là một biệt thự của một tham tán nước ngoài, trong phòng bếp đầy đủ mọi thứ. Cô tuy là một thiên kim tiểu thư, nhưng vì từng du học, nên không cảm thấy lạ lẫm. Cô lấy bát đĩa ra, lại cầm một chai nước mắm đóng nắp, nói với Mộng Dung Phong: “Mở giúp em cái này”.Thẩm Gia Bình từ ngoài bước vào, Mộ Dung Phong không muốn anh ta bước vào, tự mình cầm con dao nhỏ cạy ra từng chút. Anh rất hiếm khi làm việc này, nhưng bây giờ lại có một cảm giác vui tột độ, dường như sự việc bên ngoài núi là một thế giới khác xa xôi, việc duy nhất lúc này là giúp cô mở cái nắp này.
Phòng bếp kiểu Tây không đầy vết dầu mỡ như phòng bếp kiểu Trung Quốc, sàn nhà là gạch xanh bằng phẳng trên tường cũng giống như phòng bình thường, dán giấy tường phương Tây, hơn nữa phòng bếp vừa đúng hướng Tây, ánh mặt trời chiếu vào, sáng sủa sạch sẽ không khiến người ta thấy nóng. Cô cúi đầu thái củ cải đó vì chưa từng làm việc này nên nhát thì dày nhát thì mỏng thái rất lâu dao rớt xuống nhà cạch một tiếng. Ánh mặt trời chiếu xiên xiên lên tóc cô, hơi ánh lên vầng sáng vàng, có lọn tóc xổ ra, bám trên má cô, bên ngoài gió ù ù, trong phòng chỉ nghe tiếng dao nhè nhẹ, nhón tay cô thon dài, ấn lên củ cải đó, vì dùng lực mạnh nên móng tay có màu đỏ nhàn nhạt, mu bàn tay có bốn vết lõm nho nhỏ, làn da trắng ngần nên có thể nhìn thấy những mạch máu lờ mờ.
Anh đặt chiếc nắp xuống, từ phía sau anh đưa tay ra sau ấn lên mu bàn tay cô, cơ thể cô hơi run run, trên trán có mấy sợi tóc rối không vén lên, trong tóc có mùi hương nhàn nhạt, anh lại không dám hôn. Cơ thể cô hơi cứng đờ, giọng nói như thể rất bình tĩnh: “Em xong rồi mở nắp được chưa?”. Xa xa ngoài kia là tiếng gió rì rào, anh ngẩn ngơ tựa nằm mơ, những việc vặt như thế anh chưa từng làm, sau này cũng không thể chỉ có thời khắc này, cô giống như vợ anh, một đôi vợ chồng bình thường nhất, sống ở trong núi tĩnh mịch, không màng chuyện hồng trần.
Anh chưa từng mở nắp, mãi mới mở được, cô nấu món súp borscht, dùng cà chua xào với thịt dê, đều là món ăn Nga, cô mỉm cười nói: “Em xem bạn học Nga làm, cũng không biết là đúng hay không”.
Đương nhiên rất khó ăn, họ không ăn ở phòng ăn mà ngay tại phòng bếp, anh tuy không đói nhưng vẫn ăn rất ngon lành, cô chỉ uống một ngụm canh cô nói: “Chua quá hình như cho quá nhiều dấm rồi”. Anh mỉm cười: “Không sao, ăn không hết đưa anh”. Cô chắt nửa bát còn lại cho anh, trên người cô có mùi thơm của dấm, gần như thế nhưng lại xa như thế.
Đi ra khỏi phòng không khí mát mẻ, tuy đã là tháng tám nhưng đã đượm khí thu. Xung quanh đều là chiều tà mênh mang, dần dần bao phủ con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra sau núi, anh và cô lặng lẽ đi, Thẩm Gia Bình và mấy cận vệ đi phía sau không xa. Đường núi được lát đá xanh, và ít người đi lại mặt đá rêu, hôm nay cô đi đôi giày cao gót, dần dần đi khó khăn hơn. Anh quay người lại đưa tay ra, cô do dự một lát, cuối cùng cũng đặt tay mình vào tay anh. Tay anh thô ráp mạnh mẽ, tràn đầy sức mạnh, tuy anh đi rất chậm nhưng mồ hôi trên trán cô vẫn dần dần rịn ra.
Vừa rẽ khỏi đường núi, cách vách đá chót vót hiện ra trước mắt, như những bức tường sừng sững muôn trượng giống như dùng dao cắt gọt. Còn phía tây là không gian vô tận, nổi lên là một vầng mặt trời đang lặn, mọi cảnh vật dưới núi đều thu trọn vào tầm mắt. Dưới chân núi khu rừng tĩnh mịch, bờ ruộng ngang dọc trong rất sương mù, ráng chiều ảm đạm, lờ mờ có thể nhìn thấy thành quách lớn, hàng vạn ngôi nhà, đó là thành Càn Bình. Xung quanh là tiếng gió ù ù không ngớt, trong chốc lát con người trở nên nhỏ bé như cọng cỏ, chỉ có vầng mặt trời đang lặn ấy rạng rỡ chiếu sáng vạn trượng hồng trần xa xôi dưới núi.
Anh nhìn thành Càn Bình nhòa đi trong ánh chiều tà, nói: “Đứng trên cao như vậy cái gì cũng nhìn thấy”. Cô lại thở dài một tiếng anh lấy khăn tay ra, trải lên một viên đá lớn,nói: “Em cũng mệt rồi ngồi xuống nghỉ ngơi chút đi”.
Cô vâng lời ngồi xuống, cô biết thời gian không còn nhiều, mặt trời xuống núi anh phải đi, về sau anh và cô chỉ là người qua đường. Anh từng đột ngột đâm vào cuộc sống của cô, nhưng cô không hề lệch hướng, cuối cùng cô vẫn phải tiếp tục cuộc sống của mình. Anh ngồi xuống bên cạnh cô, mặt trời đang chầm chậm lặn xuống giống như một quả trứng treo trên cửa sổ kính, chậm chạp rơi xuống, chậm chạp nhưng rơi thẳng, không thể kéo lên được.
Trong tay anh cầm lên một chiếc hộp nhung màu vàng nhỏ, nói với cô: “Bất luận thế nào, Tĩnh Uyển anh hi vọng em sẽ sống hạnh phúc.Sau này…sau này e rằng chúng ta chẳng còn mấy cơ hội gặp nhau, thứ này là mẹ anh để lại khi còn sống, anh luôn muốn tặng em”. Cô không nhận lấy cũng không nói gì, anh từ từ mở hộp ra, trong tích tắc ánh sáng chiếu thẳng vào khuôn mặt cô, ánh sáng đó không hề chói mắt, ngược lại rất ấm áp. Cô biết anh đã tặng thì nhất định là đồ giá trị, nhưng không bao giờ là ngọc trong veo, còn to hơn trứng chim bồ câu như thế phát ra thứ ánh sáng chuyển động kì lạ, khiến người ta yên lặng nín thở.
Ánh chiều tà rất đẹp chiếu rạng giữa trời, bầu trời giống như chiếc phẩm màu bị đổ, màu tím, màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu hồng…đằng sau anh đều là ánh mặt trời rực rỡ, ánh chiều tà cuối cùng bao phủ lấy anh, ngược ánh sáng mặt anh nhìn không rõ. “Đây là cống phẩm của “Hợp Phố” thời Càn Long vì rất hiếm nên được gọi là “Thần Châu”, tức là thần châu trong “truyền thuyết”. Cô nói: “Thứ đồ quý như vậy em không thể nhận”. Gương mặt anh như đang cười nhưng giọng nói đầy thất vọng: “Tĩnh Uyển vạn vật trên thế gian này mà nói đối với anh,quan trọng nhất chính là em, viên ngọc này có là gì chứ?”
( Ghi chú: “Hợp phố” một địa danh là nơi sản xuất ngọc trai nổi tiếng cũa Trung Quốc)
Cô buồn bã tự lừa mình dối người quay mặt đi, cuối cùng nhận lấy chiếc hộp, anh nói: “Anh đeo cho em”. Chiếc dây chuyền đó kiểu Tây, anh cúi đầu mò mẫm, mãi mà không đeo được. Trong tóc cô có mùi hoa thoang thoảng, ngón tay anh rịn mồ hôi, chiếc móc nho nhỏ chốc lát trượt ra, hơi thở của cô tràn đầy trong lòng anh, cô bỗng rướn về phía trước, mặt vùi vào ngực anh, anh ôm chặt lấy cô, tóc cô cọ vào cằm anh nhè nhẹ, hơi ngứa ngứa nổi đau không thể kiềm chế cuộn lên trong lòng anh, anh nói: “Đi với anh”.
Cô chỉ lắc đầu quầy quậy, dường như chỉ có thế mới có thể chắc chắn mình không nói ra lời gì đáng sợ. Nhà cô ở đây, gốc cô ở đây, cha mẹ người thân cô đều ở đây, tất cả mọi thứ cô thân thuộc đều ở đây. Cô luôn cho rằng mình rất dũng cảm, giờ mới biết mình rất yếu đuối, cô không dám, cô tuyệt đối không dám. Nếu cô không màng tất cả đi theo anh, nếu anh không yêu cô nữa, cô sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm, sẽ mãi mãi không thể bò lên, vì cô yêu anh như thế, nếu sau này anh không yêu cô nữa, nếu anh muốn bỏ rơi cô, cô sẽ không còn gì cả. Đến lúc đó cô làm sao có thể chịu đựng được chứ?
Nước mắt lạnh lẽo chảy ra, giọng nói của anh cũng rất nhẹ: “Mặt trời lặn rồi”
Trong làn nước mắt nhạt nhòa, mặt đất đang nuốt chút ánh sáng cuối cùng, giữa trời đất bóng tối mênh mang trào lên, đan vào giữa mùa hạ, mà cơ cơ thể cô lại vô cùng lạnh lẽo.
Vì phải về kịp trước lúc đóng cửa thành Càn Bình, nên xe đi rất nhanh. Ánh trăng đang dần lên cao, vầng trăng sáng treo lơ lửng trên ngọn cây giữa núi. Vẫn là vị Nghiêm tiên sinh đó đưa cô về. Suốt dọc đường cô đều im lặng, xe đi trên đường đá giữa núi, cán vào đá phát ra tiếng loạt roạt nhỏ. Cô cứ thất thần như thế, cũng không biết là qua bao lâu, xe bỗng nhiên lắc lư, lái xe lập tức dừng xe lại, xuống xe xem xét kêu lên bực tức: “Chết, rồi nổ lốp rồi”.
Nghiêm tiên sinh đó cũng xuống kiểm tra, hỏi lái xe: “Thay lốp dự phòng mất bao lâu?”. Lái xe đáp: “Ít nhất phải một tiếng”. Anh ta sốt ruột nói rõ tình hình với cô, cô cũng bắt đầu sốt ruột , nếu không về kịp giờ cửa thành đóng mất, phải đợi đến sáng mai mới có thể vào thành, nếu cô cả đêm không về, trong nhà sẽ loạn hết lên ấy chứ?
Đang trong lúc sốt ruột, chỉ thấy hai luồng ánh đèn rọi tới, hóa ra có một chiếc xe từ từ trên núi xuống, đường núi khúc khuỷu, chiếc xe đó vốn đi từ từ, lúc đi qua xe họ, tốc độ xe càng chậm lại. Đã đi qua bỗng nhiên chiếc xe đó dừng lại, người lái xe bước xuống,như muốn hỏi họ sao vậy. Vị Nghiêm tiên sinh đó thấy người lái xe “ồ”một tiếng, người lái xe hình như nhận ra anh ta, quay trở lại nói câu gì đó với người trong xe.
Tĩnh Uyển thấy một người xuống xe, trông rất trẻ rõ ràng là một công tử phong độ, Nghiêm tiên sinh lên trước một bước, chào hỏi qua loa, nhưng không hề giới thiệu với Tĩnh Uyển, chỉ nói: “Tiểu thư chúng tôi vội vào thành, có thể cảm phiền cho chúng tôi đi nhờ một chuyến được không?”.
Người đó nói: “Đương nhiên mời hai vị lên xe”. Giọng nói anh ta rất trầm ấm dễ nghe, lại không phải là giọng người bản địa. Tĩnh Uyển không hề để ý, khi lên xe cảm ơn, người đó khách sáo đáp lại: “Không có gì, không cần khách sáo”. Trong xe có gắn một chiếc đèn nhỏ trên trần xe, chiếu rõ khuôn mặt người đó, cô cảm thấy rất quen, chợt nhận ra đó là người nhường nhẫn hôm ấy. Người đó nhìn rõ hình dáng cô, trong mắt lóe lên ánh nhìn kì lạ, thoắt cái trở lại vẻ ung dung hôm nào.
Tuy Nghiêm tiên sinh hình như có quen biết với Trình tiên sinh nhưng trong xe họ không hề nói chuyện. Tĩnh Uyển tâm trạng vốn nặng nề, nên chỉ im lặng, may mà xe đi rất nhanh, cuối cùng kịp vào thành trước lúc đóng cửa. Tronh thành Càn Bình nhà nhà đã lên đèn, Nghiêm tiên sinh đó liên tục cảm ơn Trình tiên sinh, họ xuống xe ở cổng Tây. Nghiêm tiên sinh đó làm việc rất chu đáo, giúp cô thuê một chiếc xe kéo về nhà, còn mình ngồi một chiếc khác theo sau bảo vệ cô, giữ khoảng cách không xa không gần.
Bên ngoài cổng nhà vẫn còn bảy, tám chiếc xe đậu lại, từng dãy đèn chiếu sáng đến tận trong vườn, xem ra khách vẫn chưa về hết, cảnh vệ họ Nghiêm đó xuống xe từ xa, thấy không có ai chú ý nói nhỏ với cô: “Thời gian này tôi đều ở Càn Bình phủ nhà tiểu thư, tôi không tiện đến thường xuyên, nếu tiểu thư có việc hãy trực tiếp đến số 21 ngõ Tam Hòe phía nam thành tìm tôi”. Tĩnh Uyển gật đầu, cô sợ về nhà muộn cha tức giận sẽ sinh ra lắm chuyện, khách khứa quả nhiên vẫn chưa về, trong nhà trên hình như vẫn còn mấy bàn bạc chượt, từ xa đã nghe thấy tiếng chia bài loạt soạt. Cha đang đánh bài với mấy người chú bác, thấy cô về chỉ hỏi một câu: “Vương tiểu thư đã đỡ chút nào chưa?”
Cô gật đầu qua loa, mượn cớ mệt về phòng mình, chẳng qua cả tâm hồn, thể xác cô đều quá mệt mỏi, cô nằm xuống giường nói nghỉ ngơi một lát, nhưng liền ngủ thiếp đi luôn. Trong mơ khung cảnh giống như ngày cưới, cô che mạng đỏ mặc quần áo cưới đỏ, đứng trong lễ đường rộng lớn, xung quanh đều là bạn bè người thân, bên ngoài cười nói nhưng bên trong tim cô lại buồn cực điểm. Tiếng người xướng lễ xướng lên : “Một bá ,hai bái…”. Hứa Kiến Chương bên cạnh cúi đầu hành lễ, trong lòng cứ nghĩ không lẽ sự thật lại gả cho anh như thế, chẳng lẻ thật sự gả cho anh?
Cô bàng hoàng tỉnh dậy, chỉ thấy cánh tay tê nhức, trên người lại đắp chiến chăn mỏng, chắc là bác Ngô đắp giúp cô, cô không biết mình đã ngủ bao lâu, nhìn trời bên ngoài đang dần sáng, đêm mùa hè luôn ngắn ngủi, trời đã sắp sáng rồi. Cô liền ngồi dậy vạt áo rơi ra mấy cánh hoa, cô nhặt lên xem hoa nhài tuy đã héo nhưng vẫn còn thơm. Cô chợt nhớ ra mình còn đeo viên “thần châu” đó, cô vô thức sờ lên cổ, không ngờ không thấy gì, trái tim bỗng chùng xuống, trong chốc lát dường như toát mồ hôi lạnh, chỉ nghĩ: “Viên ngọc đâu rồi?”
Cô hốt hoảng vội vàng đánh răng rửa mặt, nghĩ viên ngọc đó nhất định là rơi tối qua, nếu không phải xe kéo lúc về nhà thì rơi trên ô tô, bây giờ phải nhanh chóng đi tìm. Cô vốn rất ham ngủ ngay cả bác Ngô cũng ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư sao dậy sớm thế”. Doãn phu nhân thấy cô xuống lầu cũng thương xót nói: “Ssao không ngủ thêm chút nữa ngày kia là ngày lành, mai e rằng nửa đêm đã phải dậy chuẩn bị, đến lúc đó rất mệt đấy”. Tĩnh Uyển “dạ” một tiếng, Doãn phu nhân có một cô con gái duy nhất nên rất yêu chiều, thấy cô không tập trung liền hỏi: “Có phải ốm rồi không? Hai ngày này đừng để mệt quá đấy”.
Tĩnh Uyển vâng dạ qua loa với mẹ, trong đầu chỉ nghĩ trước tiên phải đi ngõ Tam Hòe, nói với Nghiêm tiên sinh, anh ta quan biết Trình tiên sinh, có thể bảo anh ta đi hỏi xem có phải rơi trên xe vị Trình tiên sinh đó không, nếu không vậy thì phiền phức rồi. Đang tính toán như thế bác Phúc đến thông báo có khách đến thăm cô, vì bình thường cô cũng có rất nhiều bạn học nam đến chơi,n ên Doãn phu nhân không để ý lắm. Tĩnh Uyển cầm tờ danh thiếp lên, chỉ thấy ba chữ “Trình Tín Chi” trong lòng mừng rỡ nghĩ chắc vị Trình tiên sinh đó, vội bảo bác Phúc mời đến phòng khách nhỏ. Quả nhiên là vị Trình tiên sinh ấy, từ xa anh đã cúi người hành lễ kiểu Tây,nói luôn: “Đường đột đến thăm tiểu thư lúc này là không nên nhưng tối qua tiểu thư quên một thứ rất quan trọng trên xe tôi, cho nên tôi vô cùng mạo muội đến trả trước”.
Tĩnh Uyển lúng túng nghĩ anh xuất thân cao quí, học rộng biết nhiều, e rằng đã biết rõ lai lịch viên chân trâu ấy, chẳng trách tối qua khi trên xe vừa nhìn thấy, vẻ mặt đã hiện rõ vẻ thiếu tự nhiên. Lúc đó cô chỉ canh cánh việc trong lòng, không hề phát giác. Không biết anh ta rốt cuộc biết bao nhiêu, trong lòng cứ thấp thỏm lo âu, vị Trình tiên sinh đó lại nói như không có chuyện gì: “Em gái nhà tôi xưa nay rất thích thứ đồ này, cho nên lần trước tôi mới đặt chiếc nhẫn đó ở cửa hàng đồ Tây cho nó, viên ngọc này của tiểu thư cũng có lẽ là ngọc trai nuôi từ Đông Doanh phải không?”
Tĩnh Uyển nghe anh nói cố ý giải vây cho mình, trong lòng nhẹ nhõm cười, nói: “Đúng thế là ngọc trai nuôi”. Vị Trình tiên sinh đó nói: “Viên ngọc đẹp đẽ như vậy, chỉ có người đẹp như tiểu thư đeo mới xứng, mới cùng tỏa sáng”. Tuy nói một câu nịnh nọt lấy lòng như thế nhưng thốt ra từ miệng anh ta thấy rất tự nhiên, không hề khiến người ta cảm thấy khách sáo, giả tạo.
Chương 18
Tĩnh Uyển tiễn Trình Tín Chi về, trái tim mới đập bình thường trở lại. Ngày hôm sau, vì là ngày đại hỷ cho nên hai vợ chồng họ Doãn đều bận chuẩn bị hôn lễ, trong nhà người đông việc nhiều, mấy người chị em họ của Tĩnh Uyển đều đến, ở trên lầu cùng cô. Một đám người nói nói cười cười, bỗng nghe thấy bác Phúc từ ngoài đường hô vọng vào trong, trên tay cầm tờ báo nói: “Đại thắng đại thắng, đánh một trận thắng lớn rồi!’’.
Tĩnh Uyễn vội vàng đi lên hai bước, quả nhiên nhìn thấy hàng tít màu đỏ lớn trên trang báo: “Dư Gia Khẩu đại thắng”, cô không kịp nghĩ nhiều, chỉ mãi đọc nội dung bên dưới, chiến đấu kịch liệt hơn mười ngày, Thừa quân cuối cùng không địch được Dĩnh quân, toàn tuyến phía đông tan vỡ. Tĩnh Uyển đọc đến mấy chữ: “Dĩnh quân chiếm đóng Dư Gia Khẩu”, trong đầu “ầm” một tiếng, định thần lại mới nghĩ Dư Gia Khẩu là vùng trọng yếu của Thừa quân, sau Dư Gia Khẩu là Vĩnh Tân, Vĩnh Tân là đại bản doanh phía Nam của Thừa quân bóp chặt yết hầu đường sắt Thừa Dĩnh, bây giờ lại để mất Dư Gia Khẩu, e rằng Vĩnh Tân nguy hiểm chỉ một sớm một chiều. Cô sững sờ đứng đó, Minh Hương vội cầm lấy tờ báo, rót cho cô tách trà nóng.
Một người chị họ cười nói: “Tĩnh Uyển nhà ta từ nhỏ đã giống con trai, cho nên không chịu thua kém đấng mày râu, lúc nào cũng quan tâm tin tức quốc sự, e rằng sau này Kiến Chương còn phải chịu lép vế với em ấy”. Một người em họ khác nói: “Báo thì có gì hay, ngày ngày chỉ nói chuyện đánh nhau, nhưng em nghe cha nói, trận đáng này sẽ chóng kết thúc thôi. Tin tức trang đầu hôm nay nói nước Nga tuyên chiến với Thừa quân. Cha nói , Thừa quân lần này trước sau đều có địch, chỉ có thể thua thảm hại”.
Chỉ nghe thấy “choang” một tiếng, tách trà trong tay Tĩnh Uyển vỡ tan. Minh Hương giật bắn mình, vội vàng hỏi: “Tiểu thư có bị bỏng không?”. Tĩnh Uyển sắc mặt trắng bệch, nhưng dáng vẻ vẫn trấn tĩnh: “Không”. Minh Hương vội thu dọn mãnh vỡ, miệng còn nói: “Rơi xuống đất nở hoa vinh hoa phú quý”. Một tay Tĩnh Uyển ấn lên ngực, trên mặt đang cười ngẩn ngơ , lẩm bẩm nói: “Em học ai thế, lải nhải như vậy”. Minh Hương bĩu môi: “Còn không phải là bác Ngô, nói trong nhà có việc hỷ, những câu tốt lành nhất định phải nhớ”.
Mấy người chị em họ xúm lại coi của hồi môn của cô, khăn trùm đầu, đồ trang sức hết thảy đều mang ra, cầm thứ nào lên là tấm tắc khen thứ ấy, toàn con gái trẻ tuổi tụ tập với nhau nên rất náo nhiệt, huống hồ đang xem trang sức, khen cái này tinh xảo, cái kia quý, trên trán Tĩnh Uyển lấm tấm mồ nôi lạnh, tiếng cười nói ồn ã cả căn phòng, vang lên trong tai như xa như gần vo ve như tiếng ong. Cô trấn tĩnh vì tổ chức hôn sự nên cả phòng đều treo trướng hỷ và hoa màu, bốn bề đều là màu sắc rực rở, trong căn phòng chất đầy các loại gấm vóc, rương hòm, đều là đồ cưới chuẩn bị cho ngày mai, trên bàn trang điểm có chiếc đồng hồ Tây nho nhỏ, dưới đồng hồ có quả cầu thủy tinh di chuyển không ngừng, lắc qua lắc lại, cô nhìn đến chóng mặt, dường như cả căn phòng đang chuyển động.
Vợ chồng họ Doãn đều bận tiếp khách đến ba bốn giờ chiều, Doãn phu nhân mới có thời gian lên lầu, xem con gái, còn đám chị em họ của Tĩnh Uyển đều đi xuống bên dưới nghe kịch một mình Tĩnh Uyển ngồi ở đó, sững sờ thẩn thờ. Doãn phu nhân xót xa hỏi: “Nghe bác Ngô nói trưa nay con không ăn gì, sao mặt đỏ thế”. Tĩnh Uyển đưa tay sờ sờ mặt, má cô nóng hầm hập, giống như sốt, nhưng trong tim cô dường như có một ngọn lửa đang hừng hực cháy, ánh mắt đượm về xa xôi, cô khẽ gọi một tiếng “mẹ”.
Doãn phu nhân nhẹ nhàng vuốt tóc cô, mắt cô bỗng ngấn lệ: “Mẹ,con sợ lắm”. Doãn phu nhân sững lại một lát, lập tức cười nói: “Con bé ngốc này, có gì sợ chứ, con gái lớn đều phải gả chồng mà”. Tĩnh Uyển lại giống như sắp bật khóc, cắn chặt môi, cố ngân nước mắt. Doãn phu nhân hoảng hốt, vội nói: “Con ngoan trên dưới Hứa gia con đều quen thuộc, giống như nhà mình vậy, hơn nữa đều ở trong thành, sau này con muốn về cũng rất thuận tiện mà”.
Tĩnh Uyển cuối cùng không kìm được nữa, nước mắt trào ra, Doãn phu nhân thấy cô như thế, không hiểu vì sao cũng thấy vô cùng xúc động, đưa tay ra ôm con gái vào lòng. Tĩnh Uyển vừa nói vừa nấc nghẹn ngào: “Mẹ con xin lỗi”. Doãn phu nhân vỗ lưng cô: “Nói linh tinh, con có lỗi gì với mẹ chứ, chỉ cần con sống vui vẻ mẹ vui lắm rồi”. Bà lại nói tiếp: “Xưa nay con luôn hiểu chuyện, hôm nay phải vui vẻ, hôm nay là đại hỷ mà”. Tĩnh Uyển “vâng”một tiếng, vùi mặt vào mẹ, ôm chặt lấy eo mẹ rất lâu không chịu buông ra. Doãn phu nhân nghĩ chỉ có một cô con gái độc nhất này, ngày mai phải gả về nhà người khác, trong lòng cũng ngàn lần, vạn phần không nỡ, nên bà cứ dặn dò mãi mấy đạo lý làm dâu, rồi an ủi rất nhiều.
Theo lễ tiết, trước khi kết hôn Kiến Chương và Tĩnh Uyển không được gặp mặt, cho nên chiều muộn hôm đó, Kiến Chương gọi điện tới. Tĩnh Uyển nhận điện, trong lòng cô có cảm giác rối ren phức tạp, nhưng không biết nên nói gì với anh, Kiến Chương chỉ coi như cô mệt, nói mấy việc hôn lễ ngày mai, cuối cùng dặn dò: “Vậy em ngủ sớm đi”. Cô “ậm ừ” một tiếng, anh sắp dập điện thoại, bỗng nghe cô gọi “Kiến Chương”.Anh hỏi: “Sao thế?”. Trong ống nghe chỉ có tiếng ù ù, hơi thở anh chậm và đều, cô dịu dàng nói: “Không có gì, chỉ nuốn gọi anh một tiếng thôi”.
Thỉnh thoảng cô lộ ra vẽ trẻ con đó, nhưng Kiến Chương lại thấy ngọt ngào nói: “Ngủ sớm chút đi, ngày mai gặp mặt rồi”. Tĩnh Uyển yên lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói: “Anh cũng nghĩ sớm đi, tạm biệt”.
Cô dập điện thoại, đứng dậy. Phía trước bắc sân khấu, đang biểu diển, tiếng chiên trống truyền đến như xa như gần, réo rắt réo rắt…trái tim cô còn đập nhanh hơn tiếng trống, cô kiểm tra tất cả mọi thứ trong túi xách: ảnh cha mẹ và mình, hai tập tiền giấy dày, một nắm tiền lẻ, còn cả chiếc đồng hồ quả quýt đó. Cô nghĩ một lúc lấy khăn tay bọc viên “thần châu”, nhét vào đáy chiếc túi xách.
Khách khứa đều nghe kịch ở phía trước, cô lặng lẽ xuống lầu, vì sắp mở tiệc nên mọi người đều bận túi bụi, nhất thời không ai chú ý đến cô. Cô ra khỏi hoa viên từ cửa sau, trong vườn yên lặng không một bóng người, chỉ có mấy chiếc cờ màu nhỏ treo trên cây, tung bay trong gió, reo lên “:ật phật, lật phật”, tiếng chiêng trống huyên náo phía trước, cô lờ mờ nhận ra khúc “Ngọc Liên Minh”, đang hát đến câu: “Ta không cần gấm vóc tram ngọc, chỉ cần áo vải tram gai, mưa gió có nhau, bên nhau tron đời”….Lời thề son sắt đó như một lời an ủi kì lạ, khiến cô không thấy quá sợ hãi, chỉ là bước chân không kìm được hơi chùn lại, may mà suốt dọc đường không gặp ai. Cửa sau vốn không khóa, ông Lý canh cửa ngồi ở ghế mây, ngẩng đầu há miệng ngồi ở đó,hóa ra đã ngủ quên trong cơn gió mát, ông Lý nuôi một con chó vàng lớn, thấy cô nó lười nhác vẫy đuôi, cô lặng lẽ đi ra khỏi cửa.
Xuyên qua con phố liền nhìn thấy mấy chiếc xe kéo, đang đợi khách, cô lên đại một chiếc nói với phu xe: “Đến phía nam thành mau lên…”. Phu xe đó thấy dáng vẻ cô biết là tiểu thư con nhà giàu, hơn nữa lại không mặc cả, rõ ràng là khách sộp, lập tức hăng hái kéo nhanh như bay, không lâu sao đã đưa cô đến phía Nam thành.
Cô biết hành động này của cô khiến người đời kinh hãi, ngay cả Nghiêm tiên sinh đó thấy cô cũng rất bất ngờ. Cô không nhiều lời chỉ nói ngắn gọn một câu: “Tôi muốn đến Vĩnh Tân”.
Nghiêm tiên sinh đó lập tức trấn tĩnh, ánh mắt đầy vẻ khâm phục, miệng lại nói: “Bây giờ hai bên chiến sự gay go, giao thông đứt đoạn, tiểu thư không thể mạo hiểm như thế”.
Tĩnh Uyển cố chấp ngẩng mặt lên: “Anh ấy đã có thể đến được, anh nhất định có cách đưa tôi đi. Cửa thành sắp đóng rồi, nếu không đi hôm nay thì cả đời này tôi cũng không có cách nào đi”. Nghiêm tiên sinh do dự: “Tiểu thư thân đáng ngàn vàng, tiền tuyến lửa đạn không phải là chuyện chơi. Trên đường chẳng may có tổn thất gì, Nghiêm Thế Xương tôi mặt mũi nào đi gặp cậu Sáu”. Tĩnh Uyển giậm chân: “Tôi không sợ, anh sợ cái gì?”. Nghiêm Thế Xương suy nghĩ một lúc lâu, cuối cùng hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Vậy xin tiểu thư đợi lát. Tôi đi bố trí”.
Anh ta làm việc rất nhanh lẹ, một lúc sao liền quay lại, hai người ngồi xe ra khỏi thành, bên ngoài thành đã có một người thuê xe ngựa đón ở đó, trời đã muộn hai người ngồi trên xe ngựa lắc lư đi khoảng mười cây số. Tĩnh Uyển một nửa hồi hộp một nửa sợ hãi, xen lẫn sự vui mừng khó tả, ngồi trong chiếc ống xe ngựa lọc cọc lọc cọc. Trái tim cô ấp ủ một sự nồng nhiệt không thể khống chế. Lần này gần như đi cả nửa đêm, từ con đường nhỏ xe ngựa đi lắc lư rẽ vào con đường hẹp hơn nữa, cuối cùng đi vào một khuôn viên, nhờ vào chút ánh sáng ở đầu xe Tĩnh Uyển lờ mờ nhận thấy một hộ gia đình bình thường.
Nghiêm Thế Xương xuống xe trước, giúp cô kéo mành che nói nhỏ: “Tiểu thư tối nay ở tạm đây, sáng sớm mai lại lên đường”. Tĩnh Uyển tuy to gan, Nhưng đến nơi không quen biết này vẫn không khỏi thấy sợ hãi. Trong lòng vẫn nhớ cha mẹ, lúc này chắc họ lo lắng đến phát điên rồi, nhưng bản thân khi ra đi, đã không màng tất cả, sau này chỉ có thể cầu xin họ tha thứ.
Chủ nhà là một cặp vợ chồng tươi cười ra đón. Ở đây không có đèn điện, vẫn thắp đèn dầu, Tĩnh Uyển thấy có nữ chủ nhà mới thở phào nhẹ nhõm. Dưới ánh sáng ảm đạm, chỉ thấy một căn phòng dọn dẹp gọn gàng, bà chủ nhà giúp cô kéo chiếc mành, bên trong cũng là giường đất. Tĩnh Uyển nửa đêm bôn ba, nay thấy chiếc giường sạch sẽ đó liền ngồi xuống trước. Nghiêm Thế Xương nói: “E rằng ngày mai tiểu thư phải khổ rồi”. Anh ta nói rõ tất cả kế hoạch cho cô: Tiền tuyến tuy đang đánh nhau, nhưng ở đây rất gần núi Kỳ Phong, chúng ta đã chuẩn bị gia súc, sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành, đi qua con đường nhỏ trên núi, dự tính phải đi mất bốn năm ngày, chỉ cần đến phạm vi núi Kỳ Phong, thì chúng ta có thể kiểm soát được rồi. Có điều đường đi đều là đường nhỏ qua núi vượt đèo, nhà dân thưa thớt, chỉ sợ việc ăn ở của tiểu thư sẽ gặp khó khăn nhiều”
Tĩnh Uyển nói: “Không sao, tôi đã đi là đã chuẩn bị khổ rồi”.
Nghiêm Thế Xương gặp mặt cô có mấy lần, trong lòng rất lo lắng, cô là đại tiểu thư yếu đuối như thế chỉ sợ trên đường rất khó chăm sóc. Sáng sớm ngày hôm sau Tĩnh Uyển thay bộ đồ cũ của bà chủ nhà, lấy vải xanh quấn lên tóc, nhìn rất giống thôn nữ. Cô tuy trẻ tuổi nhưng trong lòng đầy tâm sự, biết rõ con đường phía trước rất vất vả, soi mình vào mặt nước vẫn không nhịn được cười thành tiếng.
Nghiêm Thế Xương cũng thay quần áo vải cũ, chủ nhà chuẩn bị cho anh hai con lừa lớn, lại bảo một đứa cháu của mình tuổi tầm mười bốn gọi là Thặng Nhi, giúp Tĩnh Uyển kéo gia súc. Tuy Tĩnh Uyển cưỡi ngựa rất khá nhưng cũng chưa từng cưỡi lừa, cô đứng ở một chiếc cối bên cửa do dự một lúc lâu, cuối cùng lấy hết can đảm cưỡi lên, Nghiêm Thế Xương vốn cũng rất lo lắng, thấy cô ngồi chắc chắn trên yên mới thở phào.
Khi cưỡi quen con lừa đó rồi thì đi vừa nhanh vừa chắc. Tháng tám lúa kê trong núi đang chín, Tĩnh Uyển ngắt một chiếc lá cọ che lên đầu tránh nắng, cô đã thay đổi giày da bằng đôi giày vải cũ bà chủ nhà mới khâu, trên đó thêu một cặp bướm ngũ sắc, dưới ánh mặt trời đôi giày lắc qua lắc lại, cặp bướm sống động như muốn bay lên. Cô nghiêng người ngồi trên lưng lừa, hai bên con đường nhỏ điều là cỏ dại xanh rì, thỉnh thoảng giữa khúc quanh của núi hiện ra một mảnh ruộng, gió thổi qua đám cao lương rậm rì, cách chiếc lá cọ, ánh mặt trời nóng bỏng tỏa ra hơi thơm thanh mát. Đi rất lâu mới nhìn thấy hai ba hộ gia đình lác đác ở sườn núi, khói bếp màu xanh ngọc bốc lên lưng chừng trời. Con đường núi ngoằn ngoèo, như thể đi mãi không hết vậy. Tĩnh Uyển lúc đầu vẫn lo lắng về cha mẹ, thỉnh thoảng có cảm giác áy náy, đến lúc này cũng đành cố gắng quên đi, cô nghĩ việc đã đến nước này nghĩ nhiều cũng chẳng ích gì. Trong lòng hễ nghĩ đến ngày gặp Mộ Dung Phong là cả trái tim và đầu óc đều thấy vui mừng, dù rằng cô chưa bao giờ phải đi qua đường núi gập ghềnh như vầy.
Thặng Nhi chỉ lo cắm đầu đi, Tĩnh Uyển vốn có tâm trạng, muốn phân tán sự tập trung, do đó hỏi cậu hết câu này đến câu khác như mấy tuổi rồi, nhà có bao nhiêu người, đi học chưa, đã đi đâu ra khỏi làng chưa… Nghiêm Thế Xuơng vốn rất lo lắng, thấy dáng vẻ bây giờ của cô dần dần cũng yên tâm hơn. Tĩnh Uyển hiếm khi được vào trong núi, thấy cái gì cũng mới mẻ, lúc đầu Thặng Nhi hỏi một câu mới đáp một câu, sau đó cô hỏi cây đó là cây gì, đó là hoa gì…dần dần cũng trở nên thân thuộc hơn.
Mùa thu lạnh dần gió thổi rì rào lách qua cây cối, giữa cây cỏ tiếng côn trùng như đan dệt, bên này đang hát nên kia đang ca, chít chít rít rít trầm bổng không ngừng, Thặng Nhi nhanh tay nhanh mắt, bắt ngay một con dế lớn đậu trên cỏ, lấy lá cỏ buộc lại, đưa cho Tĩnh Uyển.Tĩnh Uyển mừng rỡ đón lấy, thắt lá cỏ vào chiếc lá cọ, cầm đầu ngọn cỏ nhọn chọc choc con dế, vô tình để lộ tính khí trẻ con, Nghiêm Thế Xương thấy thế phì cười.
Đi đường như thế suốt ba bốn ngày liền, con đường họ đi rất hẻo lánh, ngoài người bản địa rất ít người biết. Cho nên tuy chặng đường rất cực nhọc nhưng bình yên thuận lợi. Nghiêm Thế Xương rất kính phục cô,nói: “Tiểu thư quả thật không thua đấng mày râu”. Tĩnh Uyển cười đáp: “Anh coi tôi là thiên kim đại tiểu thư, hẳn là có phần coi thường tôi rồi”. Nghiêm thế Xương liên tục nói: “Không dám”. Tĩnh Uyển phì cười nói: “Anh đừng vâng vâng dạ dạ thế, anh tuy là thuộc hạ của Cậu Sáu, nhưng đâu phải thuộc hạ của tôi”. Nghiêm Thế Xương nói: “Thế Xương phụng mệnh bảo vệ tiểu thư, cho nên hiện tại chính là thuộc hạ của tiểu thư”.
Tĩnh Uyển cười nói: “Lần này may nhờ có anh, nếu anh cứ vâng vâng dạ dạ như thế tôi phạt anh đấy”. Nghiêm Thế Xương lại “vâng” một tiếng, lần này đến Thặng Nhi cũng cười, Tĩnh Uyển nói: “Vừa mới nói xong, lại phạm lỗi, phạt anh hát”. Nghiêm Thế Xương theo Mộ Dung Phong từ nhỏ, lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, sống trong rừng gươm bão đạn cho đến ngày hôm nay, bình thường những đồng bào mà anh chung sống đều là đàn ông hào khí vời vợi, xưa nay không coi trọng phụ nữ yếu đuối, nhưng đồng hành cùng vị Doãn tiểu thư này lại thấy cô phóng khoáng, bình dị dễ gần, không chỉ không hề kiêu ngạo mà còn kiên nhẫn, đến đàn ông bình thường cũng không bì được. Đáng quý nhất là một đương kim tiểu thư, suốt dọc đường ăn lương khô uống nước lạnh, chân tay phồng rộp cả lên nhưng không hề chau mày. Trong lòng anh tôn trọng cô, nghe cô nói muốn phạt anh hát, cảm thấy khó xử mặt mày đỏ bừng lên điều này xưa nay chưa từng xảy ra với anh: “Tôi không biết hát”.
Tĩnh Uyển vỗ tay cười nói: “Nói dối, người nào trên thế giới này mà chẳng biết hát, mau hát một bài, nếu không tôi và Thặng Nhi đều không chịu”. Nghiêm Thế Xương không biết làm thế nào, anh cũng không biết hát nhiều bài, đàng hát một câu dân ca quê nhà: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành cây cài lên tóc, người trước người sau quay đầu nhìn lại, có ai đến hái hoa, yêu hoa yêu…”. Giọng anh khàn khô nhưng thấy Tĩnh Uyển cười, chăm chú lắng nghe, nên lại hát tiếp: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành hoa cài lên tóc, người trước người sau quay đầu lại nhìn, có ai đến lấy chị yêu chị, bướm hồng cũng biết hoa yểu điệu, bay đến bên cạnh chị chẳng lẽ anh cứ đờ đẫn như thế, đờ đẫn như thế, còn muốn anh nhét vào tay anh, nhét vào tay anh…”
Móng lừa gõ trên con đường đá, âm thanh trong trẻo, làm kinh động mấy chú chim non phía xa xa, chúng phành phạch vỗ cánh bay lên trời. Những ngày tháng trước đây của anh, hoặc là liếm máu trên bang súng đầu dao, hoặc là uống rượu cá tiền với anh em hoặc là say đắm trong nhà thổ ngõ nhỏ, chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ ngồi trên lưng lừa cất cao tiếng hát giữa núi rừng thế này, nhưng thấy khuôn mặt cô tươi cười, trong lòng dù như thế nào cũng không làm phật lòng cô. Thế Xương hát hết một bài, Tĩnh Uyển cười nói: “Hát hay như thế mà nói không biết hát”. Chiếc roi trong tay Nghiêm Thế Xương đã dính đầy mồ hôi, anh yên lặng vài giây rồi cười nói: “Giọng cậu Sáu mới hay, thỉnh thoảng nghe cậu ấy gọi một phách, còn vang hơn mấy diễn viên nổi tiếng nữa đó”
Tĩnh Uyển cười mỉm nói: “Tôi thật sự không biết, phải bắt anh ấy hát mới được”. Cô lại thuận miệng hỏi anh: “Cậu Sáu lúc nhỏ của anh trông như thế nào?”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Lúc đại soái còn sống, Cậu Sáu cũng rất nghịch ngợm, đại soái hễ tức giận là cầm chổi lông gà đánh cậu ấy, không đánh gãy chổi tuyệt đối không tha, lúc đó Cậu Sáu tầm mười tuổi, có lần gây chuyện bên ngoài, biết đại soái sẽ đánh, cho nên cầm dao cắt một vết sâu bảy, tám phân trên chiếc chổi lông gà mới. Đại soái về đến nhà, quả nhiên cầm chổi đánh, mới đánh được hai cái đã gãy, đại soái sững lại nói: “Sao loại chổi này bây giờ lại đểu thế?”. Người ở nhà ai cũng biết là Cậu Sáu bày trò, đều ôm bụng cười lỉnh ra bên ngoài.
Tĩnh Uyển cũng mỉm cười, mắt nhìn con đường núi trước măt, hình như hơi thẫn thờ, lúc này mặt trời lặn xuống núi, ánh sáng như dát vàng, Nghiêm Thế Xương cảm thấy đôi mắt cô như thủy tinh còn phát sáng óng ánh hơn cả ánh chiều tà rực rỡ đó, cô quay mặt đi má phớt hồng như ráng chiều,nói: “Nghiêm đại ca, sau đó thì sao?”. Cô gọi tiếng “đại ca” nghe rất tự nhiên, Nghiêm Thế Sơn không dám trả lời, đương lúc chần chừ lại nghe cô nói: “Tội nghiệp anh ấy từ nhỏ không có mẹ,haizz!”. Một tiếng than như thế nghe xa xôi bất tận như một sợi dây lan đến tận sâu thẳm trái tim. Nghiêm Thế Xương không dám ngẩng đầu nhìn cô nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu thư, ngày hôm nay sẽ đến Hà Gia Bảo rồi, ở đó chỉ cách núi Kỳ Phong một ngọn núi, tuy Dĩnh quân không đóng quân ở Hà Gia Bảo nhưng binh chiến lạc loạn là khó tránh khỏi. Cho nên hành trình ngày mai rất nguy hiểm, đến lúc đó nếu xảy ra chuyện gì, tiểu thư nhất định phải đi với Thặng Nhi trước, nó biết đường, biết đường nào đến núi Kỳ Phong”.
Tĩnh Uyển tuy hơi sợ hãi nhưng mau chóng lấy lại dũng khí, nói: “Nghiêm đại ca, ba chúng ta nhất định cùng nhau bình an đến núi Kỳ Phong”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Tôi chỉ sợ là bất trắc, tiểu thư là người phúc trí vẹn toàn, nhất định có thể bình an, thuận lợi đến gặp Cậu Sáu.
Chương 19
Tối đó họ vẫn ngủ nhờ nhà mấy người nông dân, vì trên đường mệt mỏi nên Tĩnh Uyển ngủ say, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, thấy hơi lạnh, cô đi đến cửa sổ mới biết là trời mưa. Trời hỡi mưa như thế là rất lầy lội khó đi, Nghiêm Thế Xương vốn định tạnh mưa mới đi nhưng mưa mùa thu, lúc mưa lúc tạnh, đến gần trưa vẫn rả rích không ngừng.Thời gian bỏ lỡ trên đường càng dài thì càng nguy hiểm, may mà sau buổi trưa trời mưa nhỏ dần, họ bèn đội mưa lên đường.
Tĩnh Uyển mặc áo mưa, đội chiếc nón che gần hết mặt, cô chưa từng mặc áo mưa, chỉ thấy mùi cây trẩu rất khó chịu. Đi được mười cây số trời lại mưa to hơn, áo mưa vừa ướt lại vừa nặng, quần áo bên trong cũng ướt gần hết, lạnh lẽo như dính vào da thịt, khiến cô không khỏi run rẩy. Nghiêm Thế xương rất lo lắng nhưng trời mưa đường trơn, lừa đi rất chậm nên chẳng còn cách nào khác. Đến chiều từ đường núi nhìn ra xa thấy những ngôi nhà lớn trong núi, trong màn mưa mênh mang giống như một bức tranh thủy mặc vẽ cảnh bốn phía mây mù. Nghiêm Thế Xương chỉ cho cô xem: “Đó chính là Hà Gia Bảo, đi qua ngọn núi chính là núi Kỳ Phong rồi”
Tĩnh Uyển phấn trấn tinh thần cười nói: “Coi như sắp đến rồi”. Đường núi khúc khuỷu, nhìn gần ngay trước mặt nhưng đi lại rất xa, đến tận lúc lên đèn họ mới xuống núi, con đường đá xanh thẳng tắp kéo dài đến Hà Gia Bảo. Vì trời mưa nên chỉ có lác đác mấy người trên đường. Họ không ghé vào thị trấn, mà chỉ dừng chân nghỉ ngơi ở bên ngoài, mua bánh ngô làm lương khô.
Nghiêm Thế Xương đội nón mặc chiếc áo mưa dầu cũ, lại nói tiếng bản địa, ông chủ cửa hàng nhỏ không hề nghi ngờ, chỉ dẫn cặn kẽ cho anh: “Buổi tối đừng đi đường, năm nay nơi này không yên ổn, lúc thì quân này đánh đến lúc thì quân kia đánh đến, hai người tốt hơn hết là nghỉ lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên đường”.
Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.
Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó, sáng mai lại lên đường”.
Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ. Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển, sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.
Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm. Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi, lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.
Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.
Trong tay anh có một khẩu súng ngắn khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần, tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.
Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.
Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi: “Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây. Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.
Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc, biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự lo âu thấp thỏm.
Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.
Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn, quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.
Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”
“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến, báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn giận mấy ngày vừa rồi”.
Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là binh pháp Tôn Tử”.
Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang dựng súng hành lễ.
Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ: “Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp: “Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ, chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.
Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ: “Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.
Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.
Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù, chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.
Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên, chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt đều sững sờ.
Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi: “Nghiêm Thế Xương”.
Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường, vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi, cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.
Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu, hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn ngon miệng”.
Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.
Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh Uyển.
Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ, đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.
Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.
Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.
Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”. Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.
Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói: “Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.
Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.
Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.
Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.
Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”. Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng, trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ: “Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.
Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt mất.
Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.
Chương 20
Báo cáo chiến sự cuối cùng của tiền tuyến đến vào buổi chiều. Sau khi Thừa quân giả vờ thất bại, Dĩnh quân quả nhiên trúng kế. Lúc này trải qua chiến đấu kịch liệt ngày đêm, Thừa quân đoạt lại Hà Gia Khẩu, công kích Tử Bình, Phụng Minh, còn tuyến Tây vừa tấn công Chương Đức, đoạt lại quyền khống chế đường sắt Thừa – Dĩnh. Dĩnh quân đã mất cửa ải Phụng Minh, đang lùi về sâu hơn mười cây số, lùi về trấn thủ tại Tấn Hoa, mà phòng tuyến phía sau Tấn Hoa là Phụ Thuận – thị trấn quân sự trọng yếu, Phụ Thuận là cửa ngõ của Càn Bình, cho nên trận đánh này đã làm lung lay gốc rễ của Dĩnh quân. Lập tức trong và ngoài nước chấn động, ngay cả chiến hạm nước ngoài cũng từ cảng Bắc Loan đi xuống phía Nam, tuần tiểu quan sát chiến cục từ xa.
Mô Dung Phong cầm báo cáo đại thắng, nhưng không hề mừng rỡ khôn xiết, vì lần này bố trí chu đáo trong thời gian dài, hơn nữa xiết hai gọng kiềm Đông Tây, cùng Hộ Quốc quân bao vây tiêu diệt, đương nhiên không thể thất bại. Các thư kí bận rộn sắp xếp các công việc như: tiếp nhận đầu hàng, bố trí tù binh, tước vũ khí, đoạt quân nhu…Tuy vẫn rất bận, nhưng trong sự bận rộn đó có sự ung dung đã được định liệu trước.
Mộ Dung Phong họp xong là quay về phòng làm việc của mình, vì báo cáo chiến sự phía Tây liên tục được chuyển đến, cho nên anh đến đó đọc trước. Hà Tự An tuy là thư kí riêng của anh, nhưng tham dự quân chính, cũng là một trợ tá quan trọng. Lúc này anh ta nghe thấy một việc quan trọng, nên đến gặp anh ngay, Hà Tự An có rất nhiều điều muốn nói, thấy Mộ Dung Phong cúi đầu chăm chú nhìn tờ bản đồ quân sự trải trên bàn liền gọi: “Cậu Sáu”.
Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, không ngẩn đầu lên, Hà Tự An biết tính khí của anh ta, không dám nói thẳng từ xa đã nói lòng vòng: “Nếu chiến sự thuận lợi, muộn nhất là tháng sau quân ta sẽ chiếm Dĩnh Châu, lúc đó mười sáu tỉnh Giang Bắc đều lọt vào tay Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong ngẩn đầu lên nhìn anh ta một cái, nói: “Muốn nói gì thì nói đi”.
Hà Tự An nói: “Chẳng lẽ cậu Sáu định chia đôi giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp, yên ổn với một nửa giang sơn?”
Mộ Dung Phong đáp: “Vĩnh Giang là nơi hiểm yếu khó vượt qua, hơn nữa đánh trận này nguyên khí của chúng ta phải cần một thời gian dài mới hồi phục được. Chính phủ Xương Nghiệp biết rõ điểm này mới mặc cả với tôi”. Anh dừng lại một lúc, nói tiếp: “Ngày đó ở Càn Bình lúc Trình Tín Chi thay mặt Trình gia đàm phán với tôi, tôi đã đồng ý với anh ta, sẽ tuân thủ lập hiến, công nhận chính phủ Xương Nghiệp, tiếp nhận quân hàm của chính phủ Xương Nghiệp. Biện pháp bề mặt đó, hát kịch vẫn phải hát cho đủ”.
Hà Tự An do dự nói: “Nếu Trình gia chịu ủng hộ Cậu Sáu, vậy nội các Xương Nghiệp có cũng như không”. Mộ Dung Phong cười nói: “Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc hào thương cự phú, Trình Doãn Chi lại quá láu cá, giỏi nhất là tính toán được mất, sao chịu bỏ Xương Nghiệp ủng hộ tôi?”.
Hà Tự An trong lòng có kế hoạch, nhưng xưa nay biết Mộ Dung Phong trẻ tuổi háo thắng, lại thích thể diện, luôn thích mềm mỏng không thích cứng rắn, cho nên lại chuyển đề tài hai người nói chuyện thời cuộc một lát, lại lan qua chuyện cung cấp vật tư thời nghị chiến. Hà Tự An đang dần dần nghĩ cách dẫn đến đề tài ấy, bỗng Thẩm Gia Bình gõ cửa đi vào, thì thầm với Mộ Dung Phong gì đó. Mộ Dung Phong liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”. Thẩm Gia Bình lộ vẻ khó xử, Mộ Dung Phong biết rõ anh ta cũng chẳng có cách nào, đứng dậy lấy một quyển công văn trong tủ cầm trên tay nói: “Vậy tôi đi xem xem”.
Hà Tự An thấy thời cơ không ổn ,vội nói: “Cậu Sáu tôi vẫn còn lời muốn nói. Mộ Dung Phong đã vội vã ra đến cửa, quay đầu lại nhìn nói: “Đợi tôi quay lại rồi nói”. Hà Tự An đuổi theo mấy bước nói: “Cậu Sáu xin dừng chân, Tự An có mấy câu quan trọng muốn nói với cậu Sáu”. Mộ Dung Phong khua khua tay biểu thị anh về rồi hãy nói, người đã được cảnh vệ vây lấy đi rất xa. Hà Tự An đàng đứng tại đó, kéo Thẩm Gia Bình hỏi: “Có phải là Doãn tiểu thư có chuyện không?”. ThẩmGia Bình cười nói: “Cũng không hẳn”. Hà Tự An trong lòng có biết bao điều muốn nói, giờ thấy vậy đành thầm tính chuyện của mình.
Mộ Dung Phong đi vào phòng, thấy một chiếc hộp sơn đỏ đặt trên bàn trà, mấy món ăn bên trong còn nguyên chưa ai động đũa, cửa gian trong vẫn đóng kín. Anh đẩy cửa ra đi vào, chỉ thấy Tĩnh Uyển như lúc sáng, ôm đầu trong chăn, ngủ không nhúc nhích, tư thế hầu như kgông thay đổi. Anh rón rén lại gần, đến tận chiếc giường, đưa tay ra sờ trán cô, cô lại quay mặt đi trốn, anh cười nói: “Anh tưởng em ngủ đấy”. Cô coi như không nghe thấy, vẫn nằm ở đó, anh liền ngồi xuống một bên giường, đẩy cô nhè nhẹ: “Được rồi coi như anh sai, em cũng tức giận cả ngày rồi, chuyện khác không nói, nhưng cơm vẫn ăn chứ”.
Sống lưng cô cũng căng lên, cô vẫn không thèm để ý, anh yên lặng một lúc, nói: “Rốt cuộc là em không tin anh, vậy thần linh chứng giám, nếu anh phụ em thì tan xương nát thịt, chết chẳng yên lành”. Cô định không thèm để ý đến anh, nhưng quả thật không kìm được, lật mình ngồi dậy: “Người dẫn quân đánh giặc, sao không biết kiêng kỵ gì hết?”. Tuy khẩu khí vẫn còn lạnh nhạt, nhưng vẫn khiến Mộ Dung Phong cười: “Nếu em thật sự không để ý đến anh cả đời, anh thà chết đi còn hơn”.
Tĩnh Uyển tức giận nói: “Anh còn nói, anh còn nói”.
Anh lại tươi cười hớn hở: “Hóa ra em vẫn sợ anh chết”.
Tĩnh Uyển bị anh kích thích như thế, tức sôi máu, vênh mặt lên: “Ai sợ anh chết, cho dù anh chết vạn lần cũng không liên quan đến em”. Anh cười nói: “Anh không nỡ chết ấy, anh chết rồi em phải làm sao?”. Tĩnh Uyển hứ một tiếng nói: “Mặt dày, vô liêm sỉ”. Anh vẫn cười: “Đối với em anh thà vô liêm sỉ một chút”.
Anh thành thật thừa nhận như thế, thật khiến Tỉnh Uyển bất ngờ, sững sờ một lát, lúc sau mới nói: “Hừ không sợ người khác nghe thấy”. Anh ôm lấy eo cô, mỉm cười nói: “Ngoài em ra ai dám nghe chứ?”. Tĩnh Uyển cố kéo mặt ra, Mộ Dung Phong, nói: “Không chịu được thì cười đi. Sao cứ phải nhịn khổ sở như thế?”. Tĩnh Uyển liếc xéo anh một cái, nói: “Ai nói em muốn cười?”. Tuy nói như thế, nụ cười cũng dần ánh lên từ đáy đôi mắt, cô đẩy anh: “Tránh ra, nhìn anh là thấy ghét rồi”.
Mộ Dung Phong cười: “Anh bận như thế còn dành thời gian đến thăm em, em lại nói anh đáng ghét, anh sẽ để ghét cả đời đấy”. Tĩnh Uyển mắng: “Anh đừng xoen xoét cái miệng, em bực thật rồi đó”. Anh cười nói: “Anh nói nghiêm túc mà”. Anh đưa tập văn kiện cho cô xem, hóa ra là giấy chứng nhận kết hôn sao thành hai bản. Phía trên tên người làm chứng, người chủ hôn đã có chữ kí, dùng con dấu riêng họ đều là tướng lĩnh cao tiền bối đức cao vọng trọng trong thành Vĩnh Tân, phía dưới tên người đàn ông, anh cũng đã kí tên đóng dấu, chỉ có phần tên của người phụ nữ là để trống.
Đầu ngón tay cô lạnh băng, lòng bàn tay anh ấm nóng, nắm chặt lấy tay cô, anh đọc từng câu một cho cô nghe: “Mộ Dung Phong, Doãn Tĩnh Uyển đính ước trọn đời, kết thành vợ chồng, nguyện sống hòa thuật hạnh phúc”. Anh đọc rất chậm, từng chữ từng chữ, giọng nói đó mang theo sự mừng rỡ, mỗi chữ cô đều nghe rõ như thế, nhưng dường như cũng chưa nghe rõ, sức lực toàn thân bị rút đi, cứ yếu ớt dựa vào anh. Còn anhdùng cánh tay ôm chặt lấy cô, dường như sợ hễ buông tay ra là cô biến mất.
Ngày tháng năm sinh của anh, tên họ anh, ngày tháng năm sinh của cô, quê quán tên họ, tên người làm chứng, tên người giới thiệu tên người chủ hôn…những nét chữ khải chi chít viết trên tờ giấy kết hôn màu hồng, cô xưa nay thấy màu hồng rất quê, nhưng hôm nay màu hồng ấm áp như ánh sáng, mơ hồ phát ra ánh nắng ấm áp, trong tim cô có một cảm giác không thể diễn tả được, thích thú đến cực điểm, lại xen lẫn một cảm giác bi thương, luôn cảm thấy thời khắc này dường như không chân thật. Cô nắm chặt lấy một góc giấy chứng nhận kết hôn đó, mỉm cười nói: “Em phải nghĩ cho kĩ, hễ kí vào là em mang họ Mộ Dung đấy”.
Cô ngẩng mặt lên nhìn anh, trong mắt anh chỉ có sự dịu dàng như nước, nhìn cô chăm chú vượt đường xa tới đây, hai người đều rất khổ sở, anh đợi cô lâu như vậy, cô cũng mù mờ tìm lâu như vậy, giờ mới biết hóa ra là anh,đời này hóa ra là anh.
Cô vùi mặt vào lòng anh, anh ôm chặt lấy cô, giống như giây phút trùng phùng, nhưng khoảnh khắc này càng ngọt ngào hơn, càng chắc chắn hơn. Lâu như vậy xa như vậy, từ lần đầu gặp mặt đến bây giờ, cách lâu như vậy ở giữa nhiều người như thế, nhiều chuyện như thế, rốt cuộc anh đã đợi được cô.
Giọng nói anh như trong mơ: “Tĩnh Uyển em còn nhớ không…”. Cô “ừ”một tiếng, anh không nói tiếp, cô không hề truy hỏi, thật ra mọi thứ đối với cô giờ như mơ, cho dù bây giờ rõ ràng là đang ôm nhau, nhưng vì đợi nhau quá lâu nên cảm giác ngọt ngào này như giấc mơ. Nhưng giấc mơ này ngọt ngào say đắm như thế, anh nào nỡ nghĩ ngợi nhiều. Trái tim bình yên thanh thản, vì biết rõ cô là của anh, biết rõ đời này kiếp này cô là của anh. Nụ cười cô ngọt ngào như thế, hai con mắt đen láy trong suốt, trong đó chỉ có bóng hình anh. Trên môi cô hơi thở ngọt ngào, anh hôn lên khóe môi cô: “Đợi đánh trận xong, anh sẽ cho em một hôn lễ lớn nhất, anh muốn cho cả thế giới biết hai ta hạnh phúc nhường nào”.
Hà Tự An vốn rất trầm tính, hôm nay không biết vì sao đứng ngồi không yên, khoanh tay đi đi lại lại trong phòng, đi lại mấy lượt lại nhìn đồng hồ trên tường. Căn phòng lớn làm việc này là nơi xử lý việc quân của Mộ Dung Phong, trên tường treo mấy bức bản đồ quân sự, trên bàn đặt một núi báo cáo quân sự, điện báo công văn đến và đi, ngoài ra còn mắc mấy chiếc điện thoại. Cách bài biện rối ren ấy khiến người ta nhìn vào cảm thấy ngột ngạt.
Hà Tự An ngồi một lát, đứng dậy bước vài bước, nghe tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ trên tường, trong lòng càng khó chịu. Nghĩ một lát cuối cùng anh đi ra ngoài, men theo hành lang đi thẳng về phía sau. Sắc trời đã tối, trong căn nhà ngang phía sau có một vườn hoa nho nhỏ, cây cối xanh tốt. Thẩm Gia Bình đang ngồi đó, vừa ngân nga khúc dân ca vừa bốc lạc ăn, thấy anh đi vào liền chào một tiếng. Hà Tự An nhìn vế phía sau, phía sau là một tầng sân nữa, cảnh vệ đứng gác cổng, có thể thấy thị vệ đi lại thấp thoáng tuần tra bên trong. Hà Tự An hỏi Thẩm Gia Bình: “Sớm như vậy Cậu Sáu đã đi ngủ rồi?”.
Thẩm Gia Bình nói: “Mới ăn tối xong, lát nữa đưa Doãn tiểu thư lên phố mua đồ. Xem ra năm nay sẽ tổ chức đám cưới thật rồi”. Hà Tự An nghe nói câu này, không khỏi cảm thấy tiếc nuối, thở dài một tiếng, dùng tay bóp vỏ lạc, ấn đến bẹp dí, cuối cùng vổ tay, phủi hét vụn nhỏ, nói: “Không ngờ Doãn tiểu thư này có thể tu thành chính quả”. Thẩm Gia Bình nói: “Tuổi của Cậu Sáu cũng nên kết hôn lâu rồi, mấy lão phu nhân cứ nói hoài, chỉ là cậu ấy không buồn nghe. Lần trước đi Càn Bình gặp người của Trình gia, nguy hiểm như thế lại nhất định phải đi gặp Doãn tiểu thư, không phải anh nói Cậu Sáu yêu thật lòng rồi sao?”.
Hà Tự An nói: “Yêu là yêu, kết hôn là kết hôn, đây là hai chuyện khác nhau”. Thẩm Gia Bình cười ha ha, nói: “Dựa theo pháp luật, coi như họ đã kết hôn rồi”. Hà Tự An nói một câu vô thưởng vô phạt: “Bây giờ là xã hội dân chủ, đương nhiên phải dựa theo pháp luật rồi”. Tâm trạng anh vốn rất tệ, nhưng bây giờ bỗng có chút tinh thần: “Doãn tiểu thư đến cũng tốt, việc ăn ở của Cậu Sáu vốn cần người lo liệu, phụ nữ vốn cẩn thận chu đáo, tốt hơn nhiều so với cảnh vệ. Ngày đó không phải đại soái luôn khen Tứ phu nhân là: “Tùy quân phu nhân”* sao? Hơn nữa bình thường Cậu Sáu luôn nhớ nhung cô ấy, cuối cùng đã được ở bên nhau, Cậu Sáu cũng bớt lo lắng nhiều”.
Vì tính khí Mộ Dung Phong không tốt, gần đây việc quân bận rộn, đương nhiên lại càng nóng nảy, cho nên các cảnh vệ hay bị ăn mắng, từ sau khi Tĩnh Uyển đến, Thẩm Gia Bình dường như trút được gánh nặng. Huống hồ Tĩnh Uyển là con gái, thân ở trong quân đội mà không hề ngạo mạn, thường mặc đồ nam đi theo Mộ Dung Phong. Hai tuyến Nam Bắc Thừa quân đồng thời chiến đấu vô cùng vất vả, còn cô cùng Mộ Dung Phong đi lại khắp các hành dinh, chạy hàng ngàn cây số, trong mưa bom lửa đạn không rời nửa bước, cho nên không ít tướng lĩnh bên cạnh Mộ Dung Phong đầu tiên lườm nguýt, sau đó hoài nghi, cuối cùng hễ nhắc đến “phu nhân” là không kìm được khen ngợi, bái phục không thôi. Ngay cả phóng viên nước ngoài cũng đăng ảnh chụp chung của cô và Mộ Dung Phong lên báo Tây, khen “Mộ Dung phu nhân cũng anh hùng”.
Cho nên hôm đó Tôn Kính Nghi cảnh vệ đi theo Thẩm Gia Bình : “Không biết vì chuyện gì mà phu nhân ngồi khóc ở đó”. Thẩm Gia Bình nói: “Vớ vẫn sao phu nhân lại khóc!”. Nói xong lại cảm thấy tuy cô kiên cường rốt cuộc vẫn chỉ là phụ nữ, câu nói của mình cũng quá võ đoán, liền hỏi: “Vì sao khóc?”.
Tôn Kính Nghi nói: “Hôm trước đánh Phụ Thuận, thu hoạch được rất nhiều thứ, đều chất cả trong kho. Mấy ngày nay phu nhân quá buồn chán, rồi đến kho tiện lấy hai quyển sách và mấy tờ báo cho phu nhân xem, không biết vì sao, vừa nãy tôi thấy phu nhân ngồi ở đó một mình, lặng lẽ khóc”.
Thẩm Gia Bình biết tính cách Tĩnh Uyển rất kiên cường, có lần ngã xuống từ lưng ngựa cũng không thấy cô đỏ mắt, nên nghe Tôn Kính Nghi nói vậy, trong lòng thấy hơi lo lắng. Anh nghĩ một lát nói: “Cậu Sáu còn đang họp, tôi đến xem phu nhân có gì dặn dò không”.
Đại quân tiến xuống phía Nam, lúc này hành dinh đặt tại thị trấn nhỏ Thanh Bình cách Phụ Thuận chỉ ba bốn cây số, vì nơi đóng quân không đủ, cho nên trưng dụng nhà quan chức về hưu của địa phương làm hành dinh. Thị trấn Thanh Bình tuy không lớn, nhưng từ xưa là trạm dịch trọng yếu, cho nên tuy là nhà dân, nhưng rất nhiều giếng trời, lớp lớp sân vườn, rộng rãi và hoa lệ. Trong chiếc sân phía trước căn nhà Tĩnh Uyển có thể đặt hàng trăm chậu hoa cúc, chen chúc như biển hoa. Thẩm Gia Bình từ xa đã nhìn thấy Tĩnh Uyển đứng trước cửa sổ, lặng lẽ nhìn biển hoa như gấm nhung. Bọn họ luôn kính trọng Tĩnh Uyển, vậy nên vừa vào phòng đã lập tức hành lễ: “Phu nhân”.
Bình thường Tĩnh Uyển rất ít khi dùng son phấn, những khi bôn ba hầu như cô đều mặt đồ nam, lúc này vì trong hành dinh nên cô mặc chiếc sườn xám nhung màu xanh thẳm hết sức bình thường, trên mặt phủ một lớp phấn mỏng, tuy thế vẫn có thể nhận ra khóe mắt hoe đỏ. Thẩm Gia Bình đang suy tính, Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh liền gượng cười, nói: “Hôm nay tôi hơi mệt, anh đừng nói với Cậu Sáu”.
Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ cô, dường như vô cùng đau lòng, nhưng anh chỉ là đội trưởng cảnh vệ, rất nhiều việc không tiện hỏi, đành đáp: “Nếu có chuyện gì, phu nhân có thể giao Gia Bình làm”. Tĩnh Uyển “ừ”một tiếng, một lúc sau mới hỏi anh: “Theo anh lúc nào mới có thể tấn công Càn Bình?”. Thẩm Gia Bình nghe cô hỏi vậy, vô cùng bất ngờ, vì tuy cô ở trong quân đội, nhưng chưa từng hỏi việc quân, bình thường đa phần bận mấy việc vặt như thăm hỏi quân lính hay cầm máu…anh chần chừ đáp: “Việc tiền tuyến rất khó nói, cũng không quá mấy ngày đâu”.
Tĩnh Uyển lại “ừ”một tiếng, Thẩm Gia Bình tinh mắt, thấy một tờ báo đặt trên chiếc bàn bằng gỗ lê,cầm lên xem, thấy đó là một tờ “Dĩnh Châu nhật báo”, mấy ngày trước mặt báo có cáo thị màu đen rất bắt mắt: “Tuyên bố đoạn tuyệt cha con Doãn Sở Phàn và Doãn Tĩnh Uyển”, anh đọc lướt thấy giọng điệu rất gay gắt, nói: “Đứa con gái hư đốn bỏ nhà bỏ nước là bất trung, hủy hôn ra đi là bất nghĩa, không nói với cha mẹ là bất hiếu”, lại viết “Kẻ bất hiếu, bất trung, bất nghĩa không thể là gia tộc Doãn thị, cho nên tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con”.
Tĩnh Uyển thấy anh đọc báo, cười thê lương nói: “Bái Lâm sắp về rồi, anh đem cái này đi, đừng để anh ấy nhìn thấy”. Từ lúc Thẩm Gia Bình quen biết cô, chưa từng thấy vẽ mặt cô như vậy, trong lòng buồn rầu, nói nhỏ: “Việc này vẫn nên nói với Cậu Sáu thì hơn, phu nhân chịu đựng tủi nhục như vậy, đến lúc đó Cậu Sáu có thể ra mặt giải thích rõ ràng”.
Trong mắt Tĩnh Uyển ngân ngấn lệ, quay mặt đi nói nhỏ giống như thì thầm một mình: “Ngay cả cha mẹ tôi cũng không cần tôi nữa, còn gì đáng để giải thích chứ?”.