Những bài tình ca đó vẫn còn, quán rượu nhỏ Makye Ame vẫn còn, nhưng chàng lãng tử tên Dangsang Wangpo đã đi đâu? Người đẹp Qonggyai Dawa Dolma đã đi đâu? Về tung tích của Dawa Dolma, có lẽ chúng ta nên có sự trình bày, người con gái Tsangyang Gyatso từng yêu ghi lòng tạc dạ, là nàng, đã thay đổi số phận cả đời của Tsangyang Gyatso. Nàng tuy quan trọng, nhưng không có Dawa Dolma, Tsangyang Gyatso cũng sẽ gặp gỡ cô gái khác trên đường phố Lhasa theo cách ấy, chỉ là tư vị khác nhau, mức độ yêu khác nhau. Tật đa tình của Ngài là bẩm sinh, những bài thơ tình ấy lưu giữ trong ký ức của Ngài, chỉ cần vừa chạm đến trái tim mềm yếu, liền ào ạt tuôn ra.
Bà chủ quán rượu nhỏ từng nói cho Dangsang Wangpo biết, Dawa Dolma, cô gái Qonggyai Ngài yêu bị cha nàng đưa về quê, định hôn sự cho nàng, làm cô dâu của người khác. Mà Tsangyang Gyatso cũng vì chuyện này đứt từng đoạn ruột, Dawa Dolma ra đi, đã dập tắt hy vọng cuối cùng của Ngài ở phàm trần. Nhưng Dawa Dolma thật sự bị gả cho người khác chăng? Nàng có phản bội lời thề năm xưa với Dangsang Wangpo không? Không, cũng như cô gái năm xưa Tsangyang Gyatso từng yêu ở Monyu, nàng cũng không bội bạc Ngài. Cô gái sống ở địa phương nhỏ Monyu ấy, đến sau này sống hay chết chẳng ai biết, nhưng chúng ta có thể đoán chắc, suốt đời nàng đều không thể hạnh phúc. Nhưng nàng gửi thân nơi làng quê nhỏ bé dân tình chất phác, đâu thể làm chuyện gì trái với đạo nghĩa, dù ngày tháng khổ sở thế nào, nàng đều phải nín nhịn.
Dawa Dolma thì khác hẳn, nàng từng phóng đãng trong thành Lhasa, từng điên cuồng trong quán rượu nhỏ, nàng dám trao ra tất cả vì tình yêu, bất chấp hậu quả. Mãi đến sau này, trên phố đồn đại lãng tử Dangsang Wangpo chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso sống trong cung Potala. Nàng để trong lòng, không nói, cũng không sợ, nàng thích thơ tình Ngài viết cho nàng, đọc hiểu được tình ý êm dịu ấm áp trong thơ. Nàng biết vì sao mỗi ngày trước lúc bình minh, Ngài luôn khẽ khàng vén chặt góc chăn cho nàng, sau đó một mình rời đi. Nàng đau lòng, vì nàng hiểu rõ Ngài không muốn làm vị Phật sống muôn dân quỳ bái kia, mà hướng đến khói lửa nhân gian. Do đó nàng hiến dâng cho Ngài tình yêu tốt đẹp hơn, đêm đêm nghiêng thành vì Ngài, chỉ mong có được nụ cười của Ngài.
Nhiều người không biết, tình lang đẹp đẽ nhất thành Lhasa Dangsang Wangpo, dù cùng mọi người uống rượu vui tràn, nhưng trong mắt Ngài trước sau ẩn giấu một nỗi u uất không xua tan được. Đây là điểm Ngài khác với mọi người, cũng là nguyên nhân nhiều cô gái cuồng nhiệt yêu Ngài. Ngài dùng thời gian ngắn nhất để tạo nên truyền kỳ ở quán rượu nhỏ Makye Ame. Vì sự chí tình chí tính của Ngài, nên lỗi lầm phạm phải đáng được tha thứ, nên muôn ngàn tín đồ sẽ trước sau như một, thậm chí so với lúc trước càng thêm ủng hộ Ngài, trân trọng yêu quý Ngài.
Trên thực tế, từ sau khi Dawa Dolma đi, không ai biết nàng rốt cuộc đã đi đâu. Nàng tựa như một câu đố, biến mất chẳng còn tăm tích trong lịch sử Tây Tạng. Có người nói Dawa Dolma bị Đệ Ba Sangye Gyatso phái người giết chết, sở dĩ y làm như vậy là để triệt để cắt đứt tạp niệm của Tsangyang Gyatso. Duy chỉ có cái chết mới có thể khiến người không còn vướng bận. Tsangyang Gyatso có thể hoài niệm Dawa Dolma suốt đời, nhưng không thể chọn lựa trốn đến chân trời vì nàng nữa. Đệ Ba Sangye Gyatso muốn để Tsangyang Gyatso hiểu rõ, là thói đa tình của Ngài đã hại nàng, khiến Ngài sám hối trong tội lỗi, từ đó kề cận trước Phật, đoạn tuyệt ý niệm trần tục.
Cũng có người nói Dawa Dolma không hề gả cho người khác, mà lựa chọn trở về quê nhà, một mình sống ở một nơi bí ẩn. Một gian nhà gỗ nhỏ, nuôi mấy con bò con cừu, sống rất mực giản đơn. Nàng sớm đã quên mất xa hoa từng có, chỉ muốn yên tịnh giữ gìn khói bếp bốn mùa, lòng như nước tĩnh lặng. Nàng cho rằng như vậy thì có thể giúp vị Phật sống trẻ tuổi quên nàng, cho rằng như vậy có thể giúp Ngài thoát khỏi kiếp số. Nàng đã sơ sót, Tsangyang Gyatso vốn dĩ không phải người thường, do đó số phận của Ngài đã sớm định sẵn, không ai có thể thay đổi. Ngày Tsangyang Gyatso bị quân đội của Lha-bzang Khan áp giải đi, chắc chắn nàng cũng biết, nhưng nàng không đến tiễn đưa, nàng không muốn sự xuất hiện của nàng đem đến cho Ngài càng nhiều vướng bận và thương cảm.
Điều nên qua đi đã qua đi, điều nên lãng quên đã lãng quên. Tôi tin rằng, dù kết cục cuối cùng của Tsangyang Gyatso ra sao, Dawa Dolma cũng sẽ sống thật tốt, sống đến tóc bạc da mồi, qua đó chứng minh lòng kiên trinh không dời của nàng đối với tình yêu. Mọi sự tổn thương bản thân đều là tàn nhẫn đối với người yêu, nàng phải sống tốt để Ngài yên lòng. Người thật sự từng yêu đều hiểu rõ, đều lý giải được. Phương thức yêu của mỗi người khác nhau, có những người chọn sống chết có nhau, có những người lại bằng lòng dùng thời gian một đời để hoài niệm dĩ vãng tốt đẹp.
Dawa Dolma không đến thành Lhasa nữa, nàng mất tích như một câu đố, có người cho rằng nàng chết, có người cho rằng nàng còn sống, nhưng đã chẳng còn quan trọng nữa. Bất kể năm xưa kết quả thế nào, ba trăm năm sau, nàng chỉ có thể lưu lại hồn phách, một hồn phách cô độc dạo chơi trong quán rượu nhỏ Makye Ame. Nếu linh hồn có thể nương tựa nhau, nàng và tình lang Dangsang Wangpo của nàng sẽ vĩnh viễn bên nhau ở đây, để người đa tình đời đời đến nhớ lại, đến cảm động. Có lẽ bạn, có lẽ tôi, chính là một người trong số đó.
Chương 42: Hồ thánh
Nếu trên đời này có ai đó khiến bạn không từ bỏ được, có việc gì khiến bạn phiền não khổ sở, nên học cách dửng dưng quên đi, chọn lựa kề cận một cảnh đẹp, làm một người yên tịnh từ bi.
Yêu một người có lẽ chỉ là trong chớp mắt, quên một người lại có thể cần cả một đời. Biết rõ như thế, nhưng nhiều người vẫn phải yêu, thậm chí ngàn dặm xa xôi truy tìm tình yêu, muốn kết một đoạn tình duyên trong kiếp này, để tuổi xuân không hối, đời người không tiếc. Có điều tình yêu cần trao ra, cần gánh vác, dù phụ bạc cũng phải nhẫn nhịn, dù phản bội cũng cần khoan dung. Dẫu có một ngày mất đi, dùng thời gian trọn đời để gìn giữ hoài tưởng, cũng sẽ không cảm thấy nặng nề mệt nhọc, tình yêu như vậy, mới được xem là tình yêu chân chính.
Yêu một phong cảnh cũng như vậy, chỉ là gặp gỡ trong thoáng chốc, cần dùng cả đời ghi nhớ. Thật ra tôi không phải là người thích phiêu bạt, chưa hề nguyện ý vắng lạnh đi lại trên đường, thậm chí e sợ như bèo trôi không gốc không rễ lênh đênh. Tôi khát khao yên ổn, dù một gian nhà nhỏ hẹp đơn sơ, cũng đủ để đặt xuống một linh hồn chán ngán trôi giạt. Nếu có thể, đời này sẽ ở dưới một gốc hoa mai, lặng nghe dòng chảy thời gian, cùng khói lửa nhân gian hững hờ đi lướt qua nhau.
Có lẽ chúng ta thường hay được nghe một câu chuyện thế này, một người cực kỳ tàn nhẫn, ngẫu nhiên gặp được một vị cao tăng, nghe sư giảng kinh nói thiền, chợt tỉnh ngộ, bèn quyết ý bỏ dao đồ tể xuống, từ đó cải tà quy chính. Hoặc gặp một thước phim chất phác cảm động nào đó, một phong cảnh khiến y trong lòng xao xuyến, bèn hối hận vì ban đầu không làm khác đi, thề chết làm người lương thiện. Lúc đó, Phật có tha thứ cho y không? Người đời có dung nạp y không? Có, nhiều sai lầm đều đáng được khoan dung tha thứ. Nếu trên đời này có ai đó khiến bạn không từ bỏ được, có việc gì khiến bạn phiền não khổ sở, nên học cách dửng dưng quên đi, chọn lựa kề cận một cảnh đẹp, làm một người yên tịnh từ bi.
Ở nơi xa xôi ấy, không biết là gió mát mời gọi, hay là mây trắng vẫy tay, nhiều người đã gặp gỡ hồ Thanh Hải như thế. Độ sâu thẳm của vùng nước trong xanh đó mang sự quen thuộc và cảm động khiến người vừa gặp đã xiêu lòng. Chẳng ai hay biết hồ này rốt cuộc từ đâu đến, dừng đỗ đã bao năm trên cao nguyên này. Nó ẩn giấu vẻ đẹp của mình, chẳng phải sợ người đời quấy nhiễu. Biết bao khách qua đường vội vã tìm kiếm nó, lưu lại truyền thuyết và câu chuyện ở đây, hồ Thanh Hải đều thuần túy trước sau như một.
Có người nói, đây là quê hương của linh hồn, chỉ thích hợp cho linh hồn cư trú. Còn thân thể của chúng ta, dù đến được chốn này rồi vẫn phải rời đi. Đó là vì chúng ta không có nổi sự tốt đẹp quá đỗi thuần túy, không có nổi thì chỉ có thể cất kín trong lòng, để chờ năm tháng sau này từ từ nhớ lại. Mỗi năm thường có nhiều loại chim muông di cư đến đây, chúng nguyện ý dừng bước vì mảng xanh trong này, an gia lạc hộ, đời đời sinh sôi ở hồ Thanh Hải. Còn hồ Thanh Hải cũng cho chúng gửi gắm mộng tưởng, gửi gắm hạnh phúc.
Khi chúng ta thiết tha mải miết ngắm nhìn mặt nước hồ dưới trời xanh đất tuyết này, sẽ không nén được suy tư, màu lam trong vắt ấy là giọt nước mắt công chúa Văn Thành để lại khi dõi về Trường An[1] ư? Hay là lời than thở Tsangyang Gyatso đánh rơi khi đi đến nơi này? Năm tháng đã để rơi một số câu chuyện ở hồ Thanh Hải, những câu chuyện này lại được cất giữ trong bộ sách cổ của hồ, để chúng ta đọc đi đọc lại. Những năm qua, biết bao người vội vã đến hồ Thanh Hải, rốt cuộc là vì hồ nước này, hay là vì câu chuyện từng xảy ra ở đây? Nếu là nước hồ, vì sao nó không chút đổi sắc, vẫn có thể bình yên không gợn sóng như thế? Nếu là câu chuyện, đời người mây nước, chúng ta đến cuối cùng còn tìm được những gì?
[1] Trường An: kinh đô nhà Đường, nay là thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.
Con người khi đắc ý ngược lại sẽ sinh ra nhiều dục vọng, khi thất ý lại rất dễ thỏa mãn. Đây là một mảnh đất cằn cỗi mà màu mỡ, khi bạn đến cảm thấy chẳng có gì cả, khi bạn đi lại cảm thấy tay nải đã bị thời gian và câu chuyện của cao nguyên nhét đầy. Dù không đích thân đến, chỉ mượn một tấm ảnh, cũng sẽ ngã vào trong hồ nước xang lam sâu thẳm đó, cam nguyện mơ một giấc mơ đi xa. Ký ức lờ mờ sẽ đưa chúng ta rời đến niên đại xa xôi, muốn thử tìm kiếm biển biếc nương dâu của quá khứ từ trong một mặt nước hồ.
Ba trăm năm trước, Tsangyang Gyatso bị sứ giả Khang Hy phái đi và quân đội của Lha-bzang Khan áp giải đến đây, ở bên hồ Thanh Hải, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Cái ngày lẫn lộn khó phân đó, đến nay vẫn khiến người ta không ngừng truy cứu, nhưng trước sau không tìm được một chút manh mối nào. Lịch sử cũng từng đưa ra nhiều ghi chép, nhưng trước sau không có một câu trả lời xác định. Có lẽ vì sự phi phàm của Tsangyang Gyatso, mọi người bằng lòng rằng kết thúc đó là một câu đố vĩnh viễn không thể giải đáp, như vậy trong lòng một vạn người, sẽ có thể sinh ra một vạn kiểu tưởng tượng.
Lịch sử xưa nay không có chân thực tuyệt đối, trải qua gọt giũa trau chuốt của muôn ngàn người đời, nó sớm đã mất đi dáng vẻ ban đầu, chỉ lưu lại một số dấu vết thoắt ẩn thoắt hiện, chờ người sau suy đoán tìm tòi. Biết bao chân tướng chìm sâu trong nước biếc trời cao, chẳng có lấy một bọt sóng đẹp đẽ. Hồ Thanh Hải không lời, nó là tượng trưng của thần linh, tỏ tường tất cả quá khứ, nhưng không thể để chân tướng bộc bạch. Chân tướng ẩn náu trong nước hồ, hóa thành bí mật vĩnh viễn.
Ở hồ Thanh Hải, có nhiều tin đồn dân gian, bởi vì hư ảo mà càng mê ly. Những tin đồn đó giống như thơ tình của Tsangyang Gyatso, có thể diễn dịch ra hơn trăm thứ câu chữ khác nhau, chúng ta chỉ cần chọn một bản mình thích là được. Duy có một bản không ai chịu tin, không một ai tin cuộc đời của Tsangyang Gyatso sẽ chung kết hạ màn ở hồ Thanh Hải. Ngài là Phật sống, là tượng trưng của thần, không ai có thể hỏi tội Ngài, có thể giam cầm cuộc đời Ngài, càng không ai có thể sắp xếp kết cuộc của Ngài. Dù chết, cũng nên có cách chết của Phật sống, chết một cách cao ngạo.
Có người suy đoán, hay là Tsangyang Gyatso nhìn thấy mặt nước hồ này, liền không muốn rời khỏi nữa. Cuối cùng Ngài vẫn không thể rời được núi thần hồ thánh nơi đây, không rời được các tín đồ ủng hộ Ngài, do đó Ngài không cam lòng bị lưu đày, thà rằng lẳng lặng ẩn tích ở đây. Hoặc giả Ngài đã sớm sắp xếp sẵn một kết cuộc như câu đố cho bản thân, chính là vì muốn người đời mãi mãi không thể quên Ngài. Ngài là Phật sống, không cần giao phó với bất cứ ai, đối với Ngài, vua chúa nhân gian chẳng qua chỉ là một kiểu tồn tại hão.
Vì Ngài coi khinh kiếp sống qua ngày, hay là số mệnh có sắp xếp khác? Tóm lại chẳng nơi nào có thể tìm được. Cảnh giới tối cao nhà Phật nói là Niết bàn[2] sống lại, chẳng lẽ Tsangyang Gyatso mượn nước hồ này, đạp sóng ngồi thuyền, đến bờ bên kia, ngắm hoa sen Ban Nhược nở rộ? Nhưng bao nhiêu người vì tìm kiếm Ngài, trăng mờ bến đò, lang thang không chốn nương thân ở đây, mà vẫn si tâm không đổi. Song chung quy có một vầng mặt trời đỏ canh giữ ở đây, ánh vàng lóng lánh ấy như ánh sáng của từ bi, ánh sáng của cát tường tỏa ra từ giữa vầng trán Phật tổ, vô tư chiếu rọi khắp đất đai non sông. Mọi người tắm gội trong ánh vàng, có thể hưởng thụ sự bình đẳng và khoan hậu mà thiên nhiên ban cho.
[2] Niết bàn: là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn “nirvāṇa”, nghĩa là bị dập tắt, thổi tắt. Thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Diệt, Diệt tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất sinh, Viên tịch, và vì sự tịch diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát, Vô vi, An lạc.
Đã ba trăm năm, không biết là thời gian vô tình, hay là con người vô tình, chúng ta thật sự không cần so đo tính toán. Trầm ngâm suy nghĩ, không biết người thế nào mới có thể đổi sắc cùng nước hồ Thanh Hải, tình cảm thế nào mới có thể sánh ngang với vẻ đẹp trong thơ ca của Tsangyang Gyatso? Lưu lại, phải chăng là chờ đợi hư vọng? Rời đi, lại phải chăng là tràn đầy buồn rầu? Lúc đến, cho rằng nơi đây chính là quê hương, khoác tay nải lên, vẫn làm lại khách qua đường như cũ.
Chương 43: Huyền cơ
Thế gian biết bao việc không lời kể được, không dạng hình dung, chỉ là một áng mây màu lững lờ, một luồng gió mát rong ruổi. Thứ chúng ta có thể nắm bắt chẳng qua chỉ là chút ít hư ảo, nhưng vẫn cam nguyện mê muội vì hư ảo.
Năm tháng luôn lưu lại cho chúng ta quá nhiều câu đố, vậy thì ai là người giải đố? Chính vì có nhiều nghi vấn không thể giải đáp như thế, mới khiến con người càng thêm khao khát tìm hiểu đối với chuyện xưa không tỏ tung tích. Bao nhiêu chuyện đời mịt mùng chìm vào sông bể thời gian, chúng ta có thể vớt lại được bao nhiêu? Cũng tựa như mặt hồ Thanh Hải thần bí này, nó trong trẻo êm đềm như thế, dù lặn xuống đáy hồ liệu có thể lượm lặt được thứ gì? Một mảnh chéo áo tàn khuyết? Một chiếc kinh luân rỉ sét? Một chuỗi tràng hạt mục nát? Hay một bộ hài cốt cô độc?
Thế gian biết bao việc không lời kể được, không dạng hình dung, chỉ là một áng mây màu lững lờ, một luồng gió mát rong ruổi. Thứ chúng ta có thể nắm bắt chẳng qua chỉ là chút ít hư ảo, nhưng vẫn cam nguyện mê muội vì hư ảo. Lịch sử lúc thì cho chúng ta nội hàm dày nặng, lúc lại giống như hồng hoang mênh mông, bước chân vào chỉ nhìn thấy khói vắng đại mạc, trăng khuyết tường đổ. Có những biến số là ý trời, có những biến số là người định, năm xưa nếu vua Khang Hy không ban xuống đạo chỉ lệnh kia, Tsangyang Gyatso sẽ không bị giải về kinh. Thế thì hồ Thanh Hải sẽ chẳng có có một huyền cơ không giải nổi, đến nay vẫn mơ hồ hư ảo trong cõi hoang nguyên tịch mịch.
Đó là một chặng hành trình dài dằng dặc, đội ngũ áp giải Tsangyang Gyatso xuất phát từ cung Potala của thành Lhasa, dọc đường trải qua đủ mọi cảnh sắc địa phương, cả quá trình tiến bước rất chậm chạp. Một đội ngũ tổ hợp bởi người của cả mấy dân tộc Hán, Mãn, Tạng, Mông, chuyến đi này của họ chỉ có một mục đích, nghe theo mệnh lệnh của vua Khang Hy và Lha-bzang Khan, áp giải Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso vào kinh. Hành trình xa thẳm, đường núi hiểm trở, vùng đất hoang vắng này không có liễu khói thuyền sơn của Giang Nam, không có kim phấn phồn hoa của kinh đô, trống trải đến dường như không có bờ bến. Năm xưa Đạt Lai thứ 5 được long trọng mời vào kinh, trên đường vinh quang vô cùng, giờ đây Đạt Lai thứ 6 lại đeo hình cụ, chịu đủ dày vò dọc đường.
Trong đội ngũ áp giải Tsangyang Gyatso, có nhiều người là binh lính Mông Cổ, phần lớn lại là đệ tử Hoàng Giáo, họ cũng có lòng kính trọng đối với vị Phật sống trẻ tuổi này. Dù họ phải nghe lệnh Lha-bzang Khan, nhưng không quá đỗi làm khó Tsangyang Gyatso; trong lòng họ, Ngài chỉ là Phật sống gặp nạn, chứ chẳng phải Đạt Lai giả như Lha-bzang Khan rêu rao. Ngay cả sứ giả của Đại Thanh, suốt dọc đường tiếp xúc gần gũi với Tsangyang Gyatso cũng bị lòng từ bi của Ngài làm cảm động, lại nghe thơ tình của Ngài, càng thêm khẳng định Ngài chính là Phật sống thật. Vì vậy họ rất mực chăm sóc Tsangyang Gyatso, thay vì nói là áp giải, chi bằng nói là hộ tống.
Chung quy vẫn là núi cao đường xa, nhiều năm nay, vị Phật sống đã ở quen trong cung Potala hoa lệ, sống cuộc sống áo đẹp cơm ngon, nào đã từng chịu nỗi khổ lưu lạc cùng khốn dường này. Họ đã vượt qua núi tuyết mênh mang, vượt qua sa mạc hoang nguyên, dọc đường gặp phải vô số kiểu thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt, thậm chí có một số binh sĩ không chịu nổi dày vò đã chết trên đường, bị âm thầm lặng lẽ chôn trong hoang mạc. Chẳng ai hay biết sự tồn tại của họ, họ bình thường đến nỗi giống như cỏ cây chốn cao nguyên, vì Tsangyang Gyatso, mới có một chặng hành trình không bình thường thế này. Nhưng mọi người cuối cùng cũng chỉ ghi nhớ Tsangyang Gyatso, còn họ chỉ là một vài nốt điểm xuyết trong sinh mệnh của Ngài.
Trải qua mấy tháng lặn lội dặm trường, khi họ đến thảo nguyên hồ Thanh Hải, vị Phật sống phong lưu tiêu sái ấy lúc này đã gầy trơ xương. Từng xiết bao hy vọng bản thân làm một khách qua đường, dắt cô gái mình thương, giục ngựa tung vó, rời xa non nước nơi đây, tìm một khách sạn nhân sinh, làm chốn về của kiếp này. Nhưng giờ đây Ngài e sợ kiếp lưu lạc ấy, bởi vì Ngài đã mất đi người con gái có thể gửi gắm cho Ngài, mất đi địa vị Phật sống Ngài từng kháng cự. Ngài là tù nhân, không biết nên lấy gì để chứng minh bản thân vốn trong sạch chẳng có gì cả. Nói cách khác, tâm tư của Ngài, nào đã thật sự có người hiểu được.
Đây là một vùng đất tin vào số mệnh, trong khói lửa đều lan tỏa hơi thở của số mệnh. Hồ Thanh Hải, biết bao người cầu nguyện ở đây, nhưng nó cho được bao nhiêu người tròn vẹn? Biết bao người ném đá vào trong hồ, là vì họ tin tưởng hồ Thanh Hải trước sau sẽ cho nhân gian một giao phó công bằng. Người đến nơi này đều sẽ cầu phúc cho Tsangyang Gyatso, dù có tin số mệnh hay không, có tín ngưỡng giống nhau hay không, đều nguyện ý vì hồ thánh, vì Đạt Lai thứ 6, lưu lại lời chúc phúc vĩnh viễn. Dẫu Ngài sớm đã biến mất không còn tăm tích trên thế gian này, sớm đã không rõ về đâu, nhưng chúng ta vẫn tin tưởng linh hồn của Ngài sẽ quanh quẩn ở đây, chỉ để đền đáp muôn ngàn chúng sinh vì Ngài bôn ba rong ruổi.
“Thanh Sử Cảo[1]” từng ghi chép, hồ Thanh Hải chính là nơi vùi xương của Tsangyang Gyatso. Trên đường đến kinh thành, Đạt Lai thứ 6 tuổi mới hai mươi lăm, bị bệnh và qua đời ở hồ Thanh Hải, gửi gắm sinh mệnh cho làn nước hồ xanh thẳm trong veo đó. Nhưng ghi chép sơ sài như thế làm sao khiến mọi người tin phục? Dân gian sau đó lại có nhiều cách nói khác nhau đối với tung tích của Tsangyang Gyatso. Câu đố về sự sống chết của Ngài, lưu lại tại hồ Thanh Hải, nước hồ trầm mặc, không cho bạn một lời giải đáp. Và câu đố về cái chết của Tsangyang Gyatso đã thành một án treo không thể phá giải trong lịch sử và Phật giáo Tạng truyền.
[1] Thanh Sử Cảo: bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập ra nhà Thanh vào năm 1616 đến khi Cách mạng Tân Hợi kết thúc sự thống trị của nhà Thanh vào năm 1911.
Về tung tích của Ngài, truyền thuyết quá nhiều, rất đỗi thần bí, lại rất đỗi buồn đẹp. Có người nói Ngài đi đến hồ Thanh Hải, mắc một trận bệnh nặng rồi qua đời ở đây. Cũng có người nói trên đường đi Ngài đã bị Lha-bzang Khan bí mật giết hại, mục đích là không cho Ngài có cơ hội gặp được vua Đại Thanh, có thể gây hậu họa khôn lường. Cũng có người nói, cuối cùng ngài bị vua Khang Hy giam cầm ở núi Ngũ Đài[2], u uất mà qua đời. Truyền thuyết cuối cùng được nhiều người mong mỏi là Tsangyang Gyatso gặp được quan áp giải tốt bụng, đã mạo hiểm tự mình thả Ngài. Từ đó Ngài mai danh ẩn tính, làm một người chăn nuôi bình thường bên hồ Thanh Hải, thơ rượu phong lưu, sống hết cuộc đời còn lại.
[2] Núi Ngũ Đài: còn gọi là núi Thanh Lương, nằm trong địa phận huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, là một trong tứ đại Phật giáo danh sơn tại Trung Quốc, được đưa vào danh sách di sản thế giới của UNESCO năm 2009. Núi Ngũ Đài được coi là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù, và cũng có quan hệ lâu dài với Phật giáo Tây Tạng.
Những chuyện này đều chỉ là truyền thuyết, là dân chúng đã tô vẽ thêm từng nét màu sắc thần bí mà lãng mạn cho vị tình tăng giàu thần thái truyền kỳ này. Kỳ thực chúng ta đều là tướng bại dưới tay của năm tháng, bất kể số mệnh của Tsangyang Gyatso thuộc về truyền thuyết nào, cuối cùng đều trở về chốn gió bụi vô tận. Ngài chết năm hai mươi lăm tuổi, hay sống đến tóc bạc phơ phơ, cũng chỉ là sự dài ngắn của sinh mệnh, quá trình khác nhau, kết cuộc lại giống nhau. Nhưng tận sâu thẳm nội tâm chúng ta luôn có một khát vọng, cũng giống như xem một vở kịch, càng khúc chiết thì càng sinh động, người diễn nhập vai, người xem cũng không thoát ra được.
Có lẽ Tsangyang Gyatso thật sự bệnh chết tại hồ Thanh Hải, Ngài không chịu nổi nỗi khổ lưu lạc, mắc một trận bệnh nặng, không chữa trị được mà qua đời. Nhưng không ai bằng lòng chấp nhận cái chết của Ngài, thà rằng tin Ngài chớp nhoáng ẩn tích, kín đáo không tăm hơi. Lha-bzang Khan sẽ không bí mật giết chết Ngài ở giữa đường, nếu thật sự muốn Ngài chết, Tsangyang Gyatso có lẽ đã không bước được ra khỏi cung Potala. Đệ Ba Sangye Gyatso lòng dạ sâu xa, cũng phải đầu rơi xuống đất trước mặt y, huống hồ chỉ là Tsangyang Gyatso mềm yếu cô độc. Ngài cũng không bị giam cầm ở núi Ngũ Đài, nếu thật sự bị Khang Hy giam cầm, thế thì trong sử Thanh sẽ có ghi chép chi tiết, không cần để lại một câu đố, khiến người đời nhọc lòng suy đoán.
Tsangyang Gyatso thật sự lưu lại hồ Thanh Hải ư? Phải chăng đã xảy ra một câu chuyện tình yêu đơn giản đẹp đẽ với một cô gái chăn cừu nơi này, thần linh của hồ Thanh Hải đã đáp ứng tâm nguyện của Ngài, để Ngài thơ rượu phong lưu sống hết một đời ở vùng đất yên bình này? Chắc chắn không thể là như thế, Ngài là Phật sống, Ngài nên nghĩ cách bước ra khỏi đường quanh bến mê của trần thế, sao lại có thể sa vào lưới trần, cam nguyện một đời lem luốc bùn đất? Hơn nữa nhân gian rối ren, nào đã có sự tròn vẹn Ngài mong muốn, sự tròn vẹn chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng ấy? Ngài chọn cung Potala, suốt đời là Phật, thì phải phụ lòng giai nhân. Ngài chọn tiêu dao hồng trần, cùng người đẹp hoan ái, thì định sẵn sẽ phản bội Phật tổ. Do đó, chúng sinh cũng không thể sắp xếp một kết cục hoàn mỹ cho Tsangyang Gyatso.
Ngắm hồ Thanh Hải lần nữa, nó vẫn lặng yên. Mấy trăm năm rồi, nó mang nặng bí mật không thể giải đáp này, bị người đời truy hỏi vô số lần, chẳng lẽ thật sự không mệt mỏi chút nào? Chắc là không mệt, nếu không, làm sao êm đềm phẳng lặng như thế, làm sao trong trẻo tinh khiết như thế. Chỉ có trong gió nhẹ, mặt nước hồ ấy lăn tăn gợn sóng, như có tâm nguyện chưa thỏa, muốn kể với chúng ta.
Rốt cuộc đã ẩn giấu bí mật gì không cho ai biết? Người tên là Tsangyang Gyatso ấy, cuối cùng đã đi đến chốn nào? Truyền kỳ đời này của Ngài thật sự đã kết thúc, hay là vừa mới bắt đầu? Hồ Thanh Hải, là duyên đi của Ngài, hay là duyên đến của Ngài?
Chương 44: Lưới trần
Tsangyang Gyatso, Ngài không thẹn là vị vua lớn nhất của cung Potala, không thẹn là tình lang đẹp nhất trên đường phố Lhasa. Chỉ có Ngài mới xứng đáng là nhất đại tình tăng, thâm tình và từ bi của Ngài đã trở thành tín ngưỡng của người Tạng.
Phật nói, hãy bỏ qua cho những người đã từng lầm đường lạc lối vì tình yêu, tha thứ cho họ, cũng là khoan dung cho mình. Đời người có nhiều cạm bẫy đều do bản thân tự tay đào nên, cho rằng có thể săn bắt được người khác, nhưng chính mình mới là người mắc bẫy. Trên đời có lưới trần, lưới tình, lưới danh lợi, bạn không rời bỏ được thứ gì, sẽ bị thứ ấy quấn chặt. Chuyện đời là thế, có mất có được, không mất khó được. Nhưng nào ai chắc chắn rằng thứ có được sẽ nhất định sẽ nhiều hơn thứ mất đi?
Chúng ta thường thích vào một ngày bình thường, một mình pha một ly trà cảm xúc, buồn vui, chua ngọt trong đó có thể phối hợp theo khẩu vị của mình. Nhưng ly trà của đời người lại không cho phép chúng ta tùy ý pha chế, mất đi chừng mực, liền thành trà đắng cả đời. Tsangyang Gyatso là Phật sống tôn quý, ly trà đời người này cũng không thể tự châm tự uống, mà phải nghe theo sắp xếp của số mệnh. Ngài đem một mảnh lòng băng ném vào trong ấm, đợi khi trà nguội người tan, Ngài nên đi đâu, làm gì?
Đó vốn là một thời đại Phật sống phô trương thanh thế, vô số người Tạng lấy Phật giáo làm tín ngưỡng kiếp này vĩnh viễn không thay đổi, cam nguyện cúi đầu làm tín đồ. Họ tin tưởng nhân quả, tin tưởng mọi thứ trên đời đều có luân hồi, tin tưởng mảnh đất họ sinh sống có núi thần hồ thánh bảo hộ, đời đời bình an hạnh phúc. Năm xưa vua Thuận Trị của Đại Thanh từng nhiều lần long trọng mời Đạt Lai thứ 5 vào kinh, sau đó Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso được quan viên Đại Thanh tháp tùng, dẫn ba ngàn người rầm rộ lên đường đến kinh thành, vua Thuận Trị dùng lễ nghi cao nhất tiếp đãi. Sau khi Đạt Lai thứ 5 ra về, còn ban cho Ngài ấn vàng và sách phong tôn quý vô cùng.
Nào ngờ cục diện chính trị có quá nhiều tranh đoạt biến động, dù là xứ Phật, cũng không có tịnh thổ. Nếu không sợ dẫn đến cục diện chính trị Tây Tạng hỗn loạn, Đệ Ba Sangye Gyatso cũng sẽ không giấu không phát tang đối với cái chết của Đạt Lai thứ 5, còn Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso cũng không cần ẩn náu trong dân gian mười lăm năm tròn. Mười lăm năm, một đứa bé oe oe chào đời đã khôn lớn thành một thiếu niên anh tuấn phong lưu, tư tưởng của Ngài, tình cảm của Ngài đều lưu lại ở làng nhỏ tôn sùng tự do và tình yêu ấy. Hạnh phúc bình dị này bị một thân phận giấu kín đập tan triệt để, lần đầu tiên Ngài nếm trải nỗi thống khổ của sự mất mát, mất đi người thân ở quê nhà, mất đi cô gái thuở mơ xanh ngựa gỗ, mất đi tự do Ngài đang có.
Bất cứ người nào cũng biết, Tsangyang Gyatso đã tiếp nhận thân phận Phật sống vào lúc chưa biết gì cả. Bị Sangye Gyatso từ làng nhỏ Monyu đưa đến cung Potala của Lhasa, từ một thiếu niên chăn bò, lắc mình biến hóa, trở thành Phật sống được chúng sinh ủng hộ. Ngài trút bỏ trang phục chất phác, mặc áo sư vào, ngồi trên ngai Phật chót vót, được muôn dân thành kính lễ bái. Nếu không phải Đệ Ba Sangye Gyatso lo lắng cho cục diện chính trị, rề rà không chịu giao quyền trượng cho Ngài, Ngài có thể chủ trì chính sự theo ý muốn, thì sẽ không khổ sở vì thân phận con rối mấy năm.
May thay Ngài đã có hạnh phúc khác, cửa sau thông đến thành Lhasa của cung Potala, đã tìm được cho Tsangyang Gyatso mùa xuân Ngài luôn hướng đến. Quán rượu nhỏ Makye Ame ấy đã thỏa mãn tâm nguyện Ngài trong mơ tìm kiếm, cô gái Qonggyai tên Dawa Dolma ấy đã bù đắp nỗi khổ sở bơ vơ nhiều năm của Ngài. Đó là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời Tsangyang Gyatso, ngày ngày mong mỏi mặt trời lặn, bởi chỉ có vào ban đêm, Ngài mới có thể tận tình buông thả linh hồn, ở quán rượu nhỏ uống rượu vui ca, cùng cô gái mình yêu nửa đêm vuốt ve an ủi. Mà trước khi trời sáng, con chó vàng già nua trung thành của cung Potala sẽ chờ đợi Ngài.
Nếu không có sự xuất hiện của Lha-bzang Khan, không có y xáo trộn một hồ nước lặng, Tsangyang Gyatso vẫn có thể tiếp tục sở hữu hạnh phúc của Ngài. Ngài có thể từ bỏ quyền lực chí cao vô thượng, chỉ cần Sangye Gyatso không hỏi đến việc của Ngài ở dân gian, để Ngài làm tình lang đẹp nhất trong thành Lhasa, mỗi ngày vui ca thơ tình của mình, tiêu dao tự tại cùng ý trung nhân. Hạnh phúc luôn quá ngắn ngủi, còn chưa nếm hết mùi vị ngọt ngào, nắng xuân muôn hồng ngàn tía đã cứ thế một đi không trở lại. Dawa Dolma rời xa Ngài, Sangye Gyatso bị xử tử, cả tòa cung điện rộng lớn, chỉ còn lại Ngài đơn độc một mình gánh vác.
Có được quyền lực thì sao? Bậc dũng sĩ tung hoành thảo nguyên đó, Ngài trước giờ nào đã làm được? Lúc ấy chính giáo Tây Tạng đã là một bàn cờ tán loạn, Tsangyang Gyatso thích mơ xuân tình dịu, làm sao có thể ra sức vãn hồi sóng dữ, phản bại thành thắng? Ngài bị số mệnh kiềm chế quá lâu, ngoài đọc kinh lúc ban đêm yên tĩnh, chỉ có thể viết thơ tình dưới ánh đèn vàng. Suốt đời này, Tsangyang Gyatso đều không thể giống như Đạt Lai thứ 5, có đầu óc thao lược kiệt xuất, Ngài chỉ có tấm lòng nhu mì phong hoa tuyết nguyệt. Vào thời buổi thái bình thịnh thế, Ngài có lẽ sẽ hạnh phúc, vào thời đại biến động ấy, Ngài định sẵn sẽ trở thành vật hy sinh của chính trị.
Bất kể những dân chúng chất phác hiền lành kia ủng hộ Phật sống của họ ra sao, cũng không thể bảo vệ Ngài. Họ trơ mắt nhìn Ngài bị đội ngũ của Lha-bzang Khan đưa đi, tường thành xây bằng thân thể máu thịt không chịu nổi một đòn, hành động vô nghĩa chỉ khiến thêm vài người bị chôn theo. Còn vị Phật sống trẻ tuổi chỉ có thể nhìn họ rơi lệ, để lại linh hồn, phó mặc thể xác lưu đày. Tình ca của Ngài từ đó hòa vào chốn sâu linh hồn mỗi người, sưởi ấm thân thể họ, cũng trở thành niềm trân trọng suốt đời của họ.
Chúng ta nên tin vào chữ duyên, gặp gỡ giữa dòng người chen vai nối gót, chính là duyên phận. Nếu không thể nắm giữ, dù là duyên định ba đời, hao mòn hết rồi cuối cùng cũng thành xa lạ. Duyên phận của Tsangyang Gyatso và Dawa Dolma rốt cuộc vẫn quá mỏng manh, thời gian bên nhau ngắn chẳng tày gang. Có lẽ chính vì ngắn ngủi mới khiến Tsangyang Gyatso ghi lòng tạc dạ như thế. Nếu gần gũi lâu rồi, đôi bên sinh lòng chán ngán, sự tốt đẹp của quá khứ đều trở thành phiền toái, những câu thơ tình kia há chẳng phải triệt để xóa bỏ trong ký ức? Đều nói như gần như xa mới là mỹ cảm, tình yêu không thể quá nhập tâm, khi yêu có thể bao dung tất cả khuyết điểm, một mai mất đi cảm giác ấy, ưu điểm cũng thành gánh nặng.
Tsangyang Gyatso đến hồ Thanh Hải, ngắm làn nước hồ êm đềm ấy, liền chẳng thể rời chân. Ngài nhận định hồ thánh này sẽ là chốn về kiếp này của Ngài, dù chôn thân ở đây, hay sau này phiêu bạt đời tàn như cũ, Ngài đều phải lưu lại nơi đây chút gì đó. Ngài phải nói cho đông đảo chúng sinh trên đời biết, Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso từng có một đoạn duyên xưa với hồ Thanh Hải, đồng thời nơi đây là trạm dịch Ngài đã dừng chân. Thật ra Ngài sớm đã nhìn thấy tín ngưỡng của bản thân, tương lai của bản thân, mộng tưởng của bản thân và tất cả nhân trước quả sau trong mảng màu lam tinh khiết này. Nhưng Ngài không nói, thà để người đời cho rằng nhân vật giống như thiên thần này đã thần kỳ chết đi hoặc thần bí mất tích ở đây.
Đấy là câu đố Ngài đặt ra cho chúng sinh, là cục diện Ngài một tay sắp sẵn, không ai có thể đoán thấu huyền cơ trong đó. Người đến xoay kinh luân trên tay, ném xuống mấy hòn đá, hoặc đựng đầy một bình nước hồ thánh, cầu nguyện chúc phúc cho Ngài. Lắng nghe truyền kỳ mơ hồ, suy đoán hành tung của Ngài, nhẩm đọc thơ tình của Ngài không biết chán. Ai nói Ngài chẳng để lại gì, trước hồ nước mênh mông xanh thẳm đó, Ngài cuối cùng không quên để lại thơ tình của mình. Nếu hỏi người đời vì sao mê luyến Tsangyang Gyatso, đó ắt là bị thơ tình của Ngài cảm nhiễm. Nếu mất đi những bài thơ tình ôn nhu này, Ngài còn là Tsangyang Gyatso chăng?
Chung quy là một nam tử thế nào, có tấm lòng ra sao, mới có thể viết ra những câu thơ tuyệt mỹ dường ấy. Tsangyang Gyatso, Ngài không thẹn là vị vua lớn nhất của cung Potala, không thẹn là tình lang đẹp nhất trên đường phố Lhasa. Chỉ có Ngài mới xứng đáng là nhất đại tình tăng, sự thâm tình và từ bi của Ngài, đã trở thành tín ngưỡng của người Tạng. Nhưng Ngài vẫn đã ra đi, rời xa những tín đồ yêu kính ủng hộ Ngài, đi một cách rất đỗi tiêu sái, rất đỗi triệt để.
Mãi đến sau này, một quyển sách “Bí truyện Đạt Lai Lạt Ma thứ 6” của Ngawang Lhundrup Daji[1] người dân tộc Mông Cổ mới thỏa mãn được tâm nguyện của nhiều người, ông đã tiếp diễn sinh mệnh của Tsangyang Gyatso, chỉ dẫn chúng ta đi tìm kiếm lời giải câu đố kia, đồng thời vì Ngài viết tiếp truyền kỳ nửa đời sau. Khiến chúng ta tin tưởng Tsangyang Gyatso thật sự không chết, Ngài thần bí mất tích ở hồ Thanh Hải, từ đó bắt đầu một chặng đường đời phiêu bạt khác.
[1] A Vượng Luân Châu Đạt Cát, 1715 - 1780.
Có duyên cuối cùng sẽ gặp lại. Thật muốn mời ai đó đến hồ Thanh Hải một chuyến, đến cung Potala một chuyến, kiếm tìm nơi chôn cất của Tsangyang Gyatso. Không biết mấy trăm năm nay, nhiều tín đồ thành kính phải chăng đã tìm được xá lợi của Ngài, sợi tóc của Ngài, hoặc một vật trang sức nào đó trên người Ngài. Nếu Ngài thật sự là Phật, thế thì cái chết cũng là giải thoát của linh hồn, nó có thể khiến linh hồn bay bổng, đồng thời tìm được chốn về. Cuộc đời của Ngài tuy là một bi kịch không thể ngăn cản, nhưng tôi tin rằng, Tsangyang Gyatso tuyệt đối sẽ không chọn lựa chạy trốn ở màn kịch cuối cùng.
Chương 45: Bí truyện
Trong những năm tháng phiêu bạt đó, Tsangyang Gyatso không có tình yêu nữa, không làm thơ nữa, cuộc đời tiêu sái đã cùng chết với tuổi đời hai mươi lăm của Ngài.
Đã đến lúc từ biệt với cảnh xuân tươi đẹp, nắng xuân của mùa vụ, tắt rồi vẫn sẽ hửng, còn nắng xuân của đời người, mất rồi sẽ một đi không về. Năm tháng vẫn biếc xanh, chỉ là một số câu chuyện bể dâu đang nhuộm màu cho nó, khiến cảnh tượng trẻ trung bắt đầu ngả vàng. Sau khi một người đi qua một chặng hành trình, luôn cảm thấy tuổi thanh xuân trong quá khứ bị uổng phí trôi qua vô ích, giờ đây mọi cuộc gặp gỡ đã trở nên muộn màng. Rất muốn trở về quá khứ, dung nhan mỹ miều, thương cảm cũng dịu dàng, buồn rầu cũng đẹp đẽ.
Nhân ngày tuyết bay lất phất, tôi vội bước đến một canh bạc thời gian. Đời người trải qua vô số biển biếc nương dâu, vì sao còn chưa hiểu rõ, trước mặt thời gian, chúng ta mãi mãi chỉ là kẻ thua cuộc, thua đến thê thảm. Thời trẻ, sở hữu cả núi thời gian, chỉ cảm thấy cho dù hoang phế ra sao đều không có lỗi. Khi đó, chúng ta thường không tin nhân quả, không tin số mệnh, cho rằng dựa vào sức lực dồi dào của mình, có thể chống đối với số mệnh. Mãi đến khi thời gian làm cho đầy người thương tích, mới biết tất cả duyên trước đều là định mệnh, tất cả kết cuộc sớm có được sắp xếp. Đã không thể thay đổi quỹ đạo của sinh mệnh, hà tất phải buồn than dòng chảy thời gian quá đỗi vội vàng?
So với Tsangyang Gyatso, chúng ta đều là người bình thường, kiếp này là người, kiếp sau không biết sẽ là gì, có lẽ là cây hoa, có lẽ là chim chóc. Ngài là Phật sống, do đó nhất định Ngài có kiếp sau, kiếp sau của Ngài vẫn là Thần Phật, vẫn ngồi trên ngai vàng chí cao vô thượng. Nhưng không phải tất cả sinh mệnh cao quý đều có thể sở hữu hạnh phúc, không phải tất cả sinh mệnh hèn kém định sẵn không có cuộc sống tốt đẹp. Chuyện đời tròn vẹn nằm ở lòng người, một tấm lòng cam nguyện bình đạm, một tấm lòng dễ dàng thỏa mãn, sẽ càng có được nhiều hơn so với lòng dạ tham muốn hư vinh.
So với các vị Phật sống khác, Tsangyang Gyatso được xem như là hạnh phúc, cuộc sống tự tại mười lăm năm trời đã cho Ngài tự do vô tận. Ngài từng có hạnh phúc bình dị nhất trên đời, từng có tình yêu tốt đẹp nhất đời người, những thứ này, các vị Đạt Lai khác đều chưa từng có. Tsangyang Gyatso không phải là một người tham luyến danh lợi, thế thì ngài nên thỏa mãn, thỏa mãn với những thứ nhiều năm qua Ngài có được mà lãng quên những thứ Ngài mất đi. Chung quy thì Ngài khác với họ, từ khi thần bí mất tích bên hồ Thanh Hải, Ngài đã định sẵn là một vị Đạt Lai thần kỳ nhất trong Phật giáo Tạng truyền.
Dù chết hay ẩn tích, cuộc đời của ngài đều đặt dấu chấm hết vào lúc hai mươi lăm tuổi. Nếu nhục thân của Ngài thật sự chết đi năm hai mươi lăm tuổi, thế thì Ngài sẽ vĩnh viễn sống ở tuổi hai lăm. Nếu Ngài không chết ở hồ Thanh Hải, thế thì người giấu họ chôn tên kia trong truyền thuyết cũng chưa chắc đã là Ngài. Dù Ngài còn sống, sinh mệnh được tiếp tục, cũng không còn là Tsangyang Gyatso trước hai mươi lăm tuổi nữa. Ngài sẽ là một người khác, một người chúng ta xa lạ, dù truyền kỳ của Ngài đang tiếp tục, Phật giáo của Ngài đang truyền dương, nhưng người chúng ta ghi nhớ, mãi mãi là Tsangyang Gyatso trước hai mươi lăm tuổi; thiếu niên tự do chăn thả tại làng núi nhỏ Monyu ấy; vị Phật sống được trăm ngàn tín đồ triều bái trong cung Potala ấy; chàng lãng tử vui vẻ hát tình ca trên đường phố Lhasa ấy.
Suốt ba trăm năm nay, hàng ngàn người truy tìm trước đi sau nối, mục đích cũng chỉ là tìm Tsangyang Gyatso lúc trước, Tsangyang Gyatso viết thơ tình, Tsangyang Gyatso thân thể bị giam cầm, linh hồn luôn buông thả. Nhưng họ không từ bỏ thăm dò câu đố của hồ Thanh Hải, Tsangyang Gyatso đã là một câu đố, thê lương đi lại trên nhân thế, đến không nơi đến, đi chẳng nơi đi. Thế là, họ đã tin tưởng truyền thuyết, tin tưởng quyển "Bí truyện" mà Ngawang Lhundrup Daji viết ra.
Biết bao người dưới ánh đèn bơ vàng vọt lật giở thơ tình của Tsangyang Gyatso, lại lật xem "Bí truyện Đạt Lai Lạt Ma thứ 6" của Ngawang Lhundrup Daji. Họ và tôi cùng tin như nhau, trong lịch sử thật sự đã có một Tsangyang Gyatso, Ngài thật sự đã sinh ra trên đất Tạng, Ngài thật sự đã đến hồ Thanh Hải, nhất định sẽ lưu lại chút gì đó. Dù trốn vào giữa cỏ cây núi đá, ẩn chìm trong gió sương mưa tuyết, nhất định vẫn có thể tìm kiếm chúng. Trong cõi u minh sẽ có sắp xếp, chỉ dẫn bạn và tôi tìm được lời giải câu đố này vào một ngày tình cờ nào đó.
Tình cảm đến lúc sâu sắc, luôn không tránh khỏi một câu: "Vì sao phải để ta gặp được người?" Đúng vậy, nếu không có gặp gỡ, ta cũng chỉ là một hạt bụi đất bình thường, mỗi ngày đầu tắt mặt tối vì cuộc sống, chìm nghỉm giữa biển người mênh mông. Vì có gặp gỡ, tất cả bắt đầu thay đổi, đã có hướng đến và theo đuổi, đã có trách nhiệm và gánh vác, đã có vui sướng và đau khổ. Do đó có lúc thà rằng cả đời không cần gặp gỡ, thà rằng suốt đời không cần nắm tay, nhưng đời người nếu không có gặp gỡ, lại sẽ buồn tẻ nhạt nhẽo biết nhường nào.
Chúng ta chưa từng gặp gỡ Tsangyang Gyatso, nhưng thường bởi xem thơ tình của Ngài mà gan ruột rối bời vì Ngài. Vô số lần tưởng tượng, sinh mệnh của Ngài tuyệt đối sẽ không ngắn ngủi như thế, Ngài chắc vẫn có tương lai rất dài, mang sứ mệnh của Phật sống, đi lại giữa nhân thế, phổ độ chúng sinh. Đó là vì nhân sinh hữu tình, Ngài là tình tăng, Ngài đem tình cảm truyền nhiễm cho người đời, đem vận mệnh giao phó cho năm tháng. Dù "Bí truyện" của Ngawang Lhundrup Daji chưa chắc thật sự đáng tin, nhưng ông đã kể cho chúng ta truyền kỳ nửa đời sau của Tsangyang Gyatso.
"Bí truyện Đạt Lai Lạt Ma thứ 6", còn có tên "Diệu âm Thiên Giới Tỳ Bà m". Ghi chép những trắc trở của Đạt Lại thứ 6 Tsangyang Gyatso, tiếp diễn truyền kỳ từ sau khi ngài biến mất ở hồ Thanh Hải. Tác giả là Ngawang Lhundrup Daji người dân tộc Mông Cổ, ông tự xưng từ nhỏ theo Tsangyang Gyatso xuất gia làm sư, học tập kinh Phật. Sau đó lại đến Tây Tạng chuyên tu, tinh thông tiếng Tạng, tu tập Hiển Mật giáo pháp[1], do đó trình độ Phật học cao thâm, trở thành bậc đại đức Phật giáo tính thông Hiến Mật giáo pháp, ở khu vực Tây Tạng được tôn xưng là Lhazun Pandita[2].
[1] Mật giáo là một chi phái của Phật giáo Đại thừa, hình thành vào khoảng thế kỷ thứ V tại Ấn Độ, có đặc trưng truyền thụ bí mật không cho phép công khai, và nội dung đầy thần bí, nên gọi là Mật giáo. Các dòng phái Phật giáo khác trước và ngoài Mật giáo được gọi là Hiển giáo.
[2] Pandita: dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là học giả uyên bác.
Nghe nói Ngawang Lhundrup Daji là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye Gyatso, là vị Phật sống chuyển thế đầu tiên sinh ra ở Alxa[3]. Nhiều tình tiết trong sách đối chứng lẫn nhau với sử ký và truyền thuyết dân gian của các vùng Hán, Tạng, Mông, nhưng vì tường thuật của "Bí truyện" quá đỗi thần kỳ, trên lịch sử lại không có các ghi chép chân thực khác sau khi Tsangyang Gyatso biến mất ở hồ Thanh Hải, do đó khiến người đời khó phân thật giả. Vì là bí truyện, đương nhiên không thể xem như chính sử để tin chắc không nghi ngờ, người đọc qua có thể không cần quá tưởng là thật, nhưng lại không thể xem thường ý nghĩa tồn tại của nó.
[3] Alxa (Minh A Lạp Thiện): một trong mười hai đơn vị hành chính cấp địa khu và một trong ba minh còn tồn tại ở Nội Mông Cổ, có biên giới với Mông Cổ ở phía Bắc, Bayan Nur ở phía đông bắc, Ô Hải và Ordos ở phía đông, Ninh Hạ ở phía đông nam, Cam Túc ở phía tây và nam. Thủ phủ là Bayan Haote (Ba Ngạn Hạo Đặc), tên cũ doanh Định Viễn.
"Bí truyện" của Ngawang Lhundrup Daji không những chẳng giải đáp được câu đố về sống chết của Tsangyang Gyatso, ngược lại khiến câu chuyện vốn dĩ hư ảo càng nhuốm màu truyền thuyết. Từng câu chữ của ông đã mang tới cho người đời trí tưởng tượng vô tận, khiến những người tìm tòi bí mật kia tin rằng Tsangyang Gyatso thực sự vẫn còn sống, đồng thời giống như trong sách của ông viết, Tsangyang Gyatso đã bắt đầu một chặng đường nhân sinh mới. Sau khi rời khỏi Thanh Hải, hành tung của Tsangyang Gyatso trải khắp cả cao nguyên Thanh Tạng, và chu du hoằng pháp ở các nơi Nepal, Ấn Độ, Tây Khang[4], Mông Cổ, từ đó thực hiện sứ mệnh Phật sống phổ độ chúng sinh của Ngài.
[4] Tây Khang: là một tỉnh không còn tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc. Tỉnh bao gồm hầu hết khu vực Kham của Tây Tạng theo cách hiểu truyền thống.
Có lẽ chúng ta thật sự không cần so đo Tsangyang Gyatso rốt cuộc đã đi đâu, mọi truy hỏi rối rắm, đối với Ngài đều chỉ là vướng bận chua ngấy. Ngài sống vì tình yêu, sống vì tự do, nếu Tsangyang Gyatso trước hai mươi lăm tuổi đã phụ lòng Phật tổ, phụ lòng giai nhân, thế thì hãy để Ngài dùng năm tháng trong tương lai để bù đắp lỗi lầm của quá khứ. Nhưng Tsangyang Gyatso sau này không còn là chàng trai tiêu sái phong lưu thuở trước, Ngài đã phụ bạc quá nhiều sứ mệnh, chịu đủ khổ nạn lưu lạc khốn cùng. Chúng ta chỉ còn nhìn thấy một hành giả đơn độc dạo chơi chốn hồng trần, một nhà sư lạc phách nơi cõi trọc.
Trong những năm tháng phiêu bạt đó, Tsangyang Gyatso không có tình yêu nữa, không làm thơ nữa, cuộc đời tiêu sái đã cùng chết đi với tuổi hai mươi lăm của Ngài. Mọi thứ của quá khứ kết thúc bên hồ Thanh Hải, chìm trong gió bụi cuồn cuộn của lịch sử, cũng chìm trong nước hồ sóng biếc không lời. Không cần mưu đồ đạt được điều gì nữa, chuyện đã qua hãy để nó trôi qua, chuyện nên đến hãy để nó đến. Đã tin nhân quả, thì nên tin tưởng, thế gian này tuy chẳng có nhục thân bất tử, nhưng vẫn có linh hồn bất diệt. Bất kể người du ngoạn chốn hồng trần đó có phải là Tsangyang Gyatso hay không, chỉ cần Ngài từng tồn tại, chính là vẻ đẹp chân thực của nhân gian.