Polaroid
Đọc truyện
Truyện Teen | Ngôn Tình | Xuyên Không | Tiểu Thuyết
Truyện ngôn tình - Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất trang 4
Chương 16: Chim lồng[2]

Ban ngày, Tsangyang Gyatso cực nhọc học tập kinh văn, không dám một phút lơ là. Chỉ vào lúc đêm khuya, cả tòa cung điện yên tĩnh hẳn, Ngài mới dám lấy bút mực ra, khẽ viết thơ tình. Con người chính là như thế, khi bạn có, có lẽ sẽ cảm thấy tất cả chẳng quan trọng lắm. Sau khi mất đi, lại ngày mong đêm nhớ, mong mỏi một ngày đoạt về được báu vật thất lạc. Thật là mâu thuẫn, nhưng không biết bắt đầu từ lúc nào, chúng ta đã thích mâu thuẫn như vậy, bằng lòng vương vấn không thôi với những tâm tư mơ hồ.

Xin Lạt Ma đắc đạo,

Chỉ đường sáng cho tôi.

Do chẳng hồi tâm được,

Lại đến bên nàng rồi.

Khuôn mặt sư nghĩ mãi,

Chẳng hiện ra trong lòng.

Dung nhan nàng hiện rõ,

Dù có nghĩ hay không.

Chữ màu đen viết xong,

Nhòe bởi mưa và nước.

Tâm tư muốn viết ra,

Muốn xóa không xóa được.

Dù là như thế, Tsangyang Gyatso cũng không phải không hề động lòng đối với quyền lực. Trong tòa cung điện vĩ đại này, Ngài là Phật sống, vốn phải có địa vị chí tôn và phong lưu vương giả, thống trị muôn dân trăm họ. Nhưng giờ đây, trong không gian rộng lớn này, Ngài không có cả tư cách nói chuyện. Ngài khát khao thời gian ba năm sớm qua đi, bản thân có thể chủ trì chính sự, trong điện lớn uy nghiêm này, cất lên tiếng nói của mình. Không phải Tsangyang Gyatso tham luyến quyền quý, trong cục thế đã không thể thay đổi, Ngài chỉ biết cúi đầu khuất phục. Đã không thể trở lại được như trước, Ngài cũng không thể đắm chìm trong hiện tại, Ngài là Phật sống, cần tuân theo phương thức của Phật sống để tiếp tục sinh tồn.

Do đó, ba năm nay, Tsangyang Gyatso dù không quên được ngày tháng tươi đẹp của quá khứ, không quên được người tình mơ xanh ngựa gỗ, nhưng Ngài cũng sống rất tỉnh táo. Ngài hiểu được sâu sắc, chỉ có học tập thành tựu, Đệ Ba Sangye Gyatso mới giao phó chính quyền cho Ngài. Cuộc sống như chim trong lồng ba năm khiến Ngài cảm thấy linh tính còn lại trên người mình đang dần dà mất đi, tình cảm mãnh liệt đối với cuộc sống ngày trước cũng lặng lẽ nhạt dần. Tsangyang Gyatso giống như một cây cỏ khô, cần ánh nắng và mưa móc tưới nhuần mới có thể sống lại. Đúng vậy, Ngài khát khao sống lại, khát khao thật sự ngồi trên ngai Phật cao ngất, bàn việc với các sư trong điện lớn, lắng nghe tiếng nói của muôn dân, dùng sức mạnh của mình, giải nạn trừ lo cho họ.

Mùa hoa nở đã qua,

Ong chớ nên rầu rĩ.

Duyên yêu nhau đã tận,

Ta cũng chẳng sầu bi.

Nếu duyên phận quả thật đã hết, cũng không cần quá đỗi bi thương. Cứ đem ký ức chôn chặt đáy lòng, lúc không người, một mình trầm tư, tưởng tượng từng vui vẻ bên nhau, chỉ là ngắn ngủi đến nỗi giống như một lần hoa nở. Hoa lỡ mất mùa nở rộ, vẫn còn có năm sau, duyên phận Ngài bở lỡ, có thể tìm lại được không? Không thể nghĩ ngợi nữa, một người quá đỗi chìm đắm trong ngày hôm qua là tự chuốc lấy đau khổ. Nếu đời này Tsangyang Gyatso đều không thể rời cung Potala, thế thì lối thoát duy nhất của Ngài, chính là giải thoát bản thân. Hồng trần và cõi Phật, cách nhau một dãy núi, một dòng sông, Ngài hoặc là tung người nhảy qua, hoặc là ngồi thuyền vượt sông.

Tuy nhiên, Tsangyang Gyatso cuối cùng cũng chịu đựng qua ba năm, gian khổ ba năm, trói buộc ba năm, Ngài phải chăng nên phá kén mà ra? Làm một chú bướm đẹp đẽ tự tại, kiêu ngạo nhẹ nhàng bay lượn giữa trăm khóm hoa. Dẫu là một đám mây trôi, không gốc không rễ, ít nhất cũng có thể trời cao biển rộng. Mười tám tuổi, cũng đã chờ đến mười tám tuổi, đây là tuổi Đạt Lai Lạt Ma tự mình chấp chính. Tsangyang Gyatso mười tám tuổi đã từ một thiếu niên anh tuấn trở thành một thanh niên trí tuệ sáng suốt, đọc kinh niệm Phật ba năm khiến Ngài thoát khỏi bản tính hoang dại của thảo nguyên, có học thức thâm thúy.

Nhưng vì sao Sangye Gyatso cứ lần lữa không chịu giao quyền trượng đến tay Ngài? Ngồi trên ngai Phật của cung Potala, dù ngày nào cũng có người rạp mình dưới chân Ngài, nhưng Ngài trước sau như một, không có mảy may quyền lực chấp chính. Ngài vẫn là con cờ do Sangye Gyatso sắp xếp, so với lúc trước, càng thêm nhu nhược, càng thêm bó tay hết cách. Chẳng lẽ chính sự rối rắm khiến Sangye Gyatso bận đến nỗi quên mất hay sao? Y làm sao có thể quên cơ chứ? Nhẫn nại ba năm, nói quên liền một nét bút sổ toẹt hết thảy như thế hay sao?

Không, Sangye Gyatso không hề quên, nếu y thật sự quên, Tsangyang Gyatso vẫn phải nhốt mình trong phòng đọc kinh niệm Phật, chứ không thể ngồi trên điện lớn, lắng nghe các sư lễ bái. Tất cả những điều này chẳng qua là cảnh giả, vì Sangye Gyatso sẽ ở sau lưng giả vờ cùng Tsangyang Gyatso bàn bạc chính sự; trên thực tế, quyền quyết định vẫn nắm chắc trong tay Sangye Gyatso. Hơn nữa y thường vẫn nhắc đến vấn đề trả lại quyền cho Ngài, chỉ là mỗi lần Tsangyang Gyatso ngẩng đầu mong đợi, cuối cùng đều kết thúc bằng thất vọng.

Tsangyang Gyatso trẻ tuổi không biết nên đòi một lời giải thích với ai. Nhìn Phật cầm hoa mỉm cười[2], Ngài cũng cười, chỉ là Ngài cười một cách ẩn nhẫn, cười một cách bất lực, cười một cách hoàn toàn không có vẻ ung dung và ôn hòa của nhà Phật. Ngài là vua của cung Potala, chỉ là trên sân khấu không ai hỏi han, một mình đạo diễn một màn kịch buồn vui vô thường.

[2] Cầm hoa mỉm cười (Niêm hoa vi tiếu): là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa cánh hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đây là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có sự giao cảm, rung động giữa hai tâm thức thầy và trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.
Chương 17: Hỏi Phật [1]

Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của ngày hôm qua cũng đã kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu rõ, tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng trên bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn.

Trên đời này quả thật có quá nhiều chuyện sơ suất ngẫu nhiên, rất nhiều bỏ lỡ, rất nhiều lướt vai, khiến người dở khóc dở cười. Rất nhiều người thích sắp xếp sẵn hành trình cho mình, ghi chép hết những việc muốn làm vào trang sách của đời người. Nhưng sự đời muôn vàn biến hoá, quá trình có lẽ còn có thể đoán trước, kết cuộc lại luôn nằm ngoài dự liệu. Thế là chúng ta không ngừng thêm bớt sửa đổi tình tiết, không ngừng nhân nhượng cầu toàn, đến cuối cùng, giữa tưởng tượng và thực thế lại khác biệt một trời một vực.

Cung Potala, một tòa cung điện đẹp đẽ trên cao nguyên Tây Tạng, một sân khấu tô vẽ đậm mực của nhân gian. Biết bao linh đồng chuyển thế xóa đi quá khứ, thay đổi tâm tình ở đó. Thế nhưng không phải bạn nghe theo ai, người đó sẽ cho bạn mãn nguyện. Tsangyang Gyatso dùng thời gian ba năm, muốn đổi lấy quyền trượng cho rằng theo lý đương nhiên thuộc về Ngài, cuối cùng cũng chỉ như bọt nước, chớp mắt đã tan. Ví như chúng ta nghĩ đủ mọi cách muốn uống một tách trà, nhưng vì thời gian chờ đợi quá dài, cầm trong tay đã nguội lạnh, uống vào đã không phải là mùi vị ấy nữa. Nhưng như vậy, ít nhất chúng ta vẫn ngửi được hương thơm của trà, còn Tsangyang Gyatso, ngồi trong cung điện sâu thẳm trống trải, chỉ cảm nhận được nỗi quạnh quẽ và bất lực vô biên.

Có người nói, Tsangyang Gyatso may mắn. Giờ đây nghĩ lại, Ngài quả thật may mắn hơn Đạt Lai Lạt Ma mấy đời trước đó. Những linh đồng chuyển thế ấy từ nhỏ đã phải tiếp nhận học tập Phật giáo chính quy, họ nào có tuổi thơ vô tư, thời gian lãng mạn. Còn Tsangyang Gyatso, mười lăm năm nay không hề biết thân phận của mình, Ngài trải qua những ngày tháng đơn thuần đẹp đẽ nhất của đời người mà không có bất cứ áp lực và gánh nặng nào. Mười lăm năm dài, dùng vui vẻ của mười lăm năm, đổi lấy năm tháng sau này thân bất do kỷ, cũng là xứng đáng.

Thế nhưng không ai quy định rằng, Tsangyang Gyatso phải hài lòng, phải trả giá vì quá khứ hạnh phúc của mình. Dù Ngài ở cung Potala, khổ tu ba năm, cũng không thể bù đắp cơ duyên đã từng lỡ mất. Bắt đầu từ khi Đệ Ba Sangye Gyatso dự tính giấu không phát tang đối với cái chết của Đạt Lai thứ 5, Tsangyang Gyatso đã mất đi thời cơ tốt nhất để trở thành Đạt Lai thứ 6. Sangye Gyatso làm sao nỡ dễ dàng nhường lại chính quyền nắm giữ mấy mươi năm cho một đứa trẻ đã buông thả chốn nhân gian mười lăm năm, y thật sự yên tâm sao? Dù hiện tại Tsangyang Gyatso đã có thành quả tu luyện ba năm, đối với Sangye Gyatso, còn xa mới đủ tiêu chuẩn trong lòng y. Tài thao lược kiệt xuất của Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso đã bén rễ sâu vững trong lòng y, những thành tựu phi phàm ấy, Tsangyang Gyatso há có thể thay thế?

Do đó, dù Tsangyang Gyatso mỏi mắt trông chờ, Sangye Gyatso cũng trước sau không giao cây quyền trượng đại diện cho vương giả ấy vào tay Ngài. Tsangyang Gyatso lại chật vật sống qua hai năm trong chờ đợi và ẩn nhẫn. Hai năm này, Ngài hết sức khiến mình bình tĩnh, hòa nhã đối đãi mỗi một việc, mỗi một người. Hai năm này, Ngài khiến mình triệt để chìm đắm trong Phật pháp mênh mông, dường như muốn quên hết mọi thứ của thời niên thiếu. Không phải là quên, đúng ra là gói ghém lại quá khứ một cách hoàn hảo, cất kín ở một góc không thể dễ dàng chạm đến của nội tâm. Dù vất vả, nhưng Ngài đã làm được, kinh Phật khiến lòng Ngài dần dần bình tĩnh. Ngài tự nhủ rằng, lúc không sức đánh trả, điều duy nhất có thể làm, chính là nhịn.

Việc đời quả thật tối sáng khó đoán, buồn vui thất thường, Tsangyang Gyatso hết sức khiến mình bình tĩnh trong chờ đợi, lại vẫn bị một tin tức bất ngờ làm tổn thương cùng cực. Mẹ và hàng xóm từ Monyu xa xôi đến thăm Ngài, mang đến cho Tsangyang Gyatso nỗi kinh ngạc như đã xa cách một đời, đồng thời cũng mang đến một tin tức khiến Ngài đau buồn mãi không thôi. Tin tức này đã đập tan hoàn toàn niềm tin Ngài kiên định không dời mấy năm nay. Từ khi rời khỏi Monyu, Tsangyang Gyatso bị nhốt trong cung Potala, một chiếc lồng mỹ miều, chỉ dựa vào hồi ức đẹp đẽ ngày trước để sống qua ngày. Trong vô số giấc mơ lúc nửa đêm, Ngài đều ảo tưởng mình và ý trung nhân hò hẹn trên bãi cỏ dưới ánh trăng, nói những lời nói dịu dàng, trong mơ, Ngài ngửi mùi hương của nàng, ngắm nụ cười ngọt ngào của nàng.

Lời thề non hẹn biển,

Nàng từng trao cho ta.

Lại giống như nút thắt,

Chưa đụng đã bung ra.

Đò ngang dẫu vô tâm,

Đầu ngựa luôn ngoảnh lại[1].

Người yêu không tình nghĩa,

Quay lưng chẳng đoái hoài.

[1] Ở Tây Tạng đò ngang đều khắc ngựa gỗ, đầu ngựa ngoảnh nhìn lại phía sau.

Nàng chẳng phải mẹ sinh,

Lớn trên cây đào ấy?

Sao tình yêu của nàng,

Tàn nhanh hơn hoa vậy?
Chương 18: Hỏi phật [2]

Giấc mơ đó đã bị đánh thức một cách tàn nhẫn, thậm chí còn không cho Ngài bất cứ cơ hội nào để nghỉ lấy hơi. Cô gái Monpa cùng Ngài thề non hẹn biển đã khoác áo cưới làm cô dâu của người khác. Lòng Tsangyang Gyatso triệt để tan nát bởi tin tức này, tình cảm vui vẻ ngày xưa hiện rõ mồn một trước mắt, lời thề đã trao vẫn còn quanh quẩn bên tai, vì sao chớp mắt tất cả đã ngấm ngầm thay đổi? Chẳng lẽ lời thề thật sự nhẹ nhàng như giấy mỏng? Chẳng lẽ lòng người dễ dàng thay đổi như thế? Tình yêu Ngài khổ sở si mê gìn giữ, ở nơi nàng, thật sự nhỏ bé không đáng kể như thế hay sao?

Người yêu ta tha thiết,

Bị kẻ khác cưới rồi.

Ta tương tư khổ sở,

Còn da bọc xương thôi.

Có thể dùng thòng lọng,

Để bắt được ngựa hoang.

Người thay đổi lòng dạ,

Sức thần khó giữ nàng.

Có lẽ chúng ta nên trách, thế là không công bằng cho cô gái người Monpa kia, Tsangyang Gyatso năm xưa vội vã rời đi, thậm chí không kịp nói cả một lời từ biệt. Sau khi nàng biết tin Ngài là linh đồng chuyển thế, biết họ kiếp này không còn hy vọng gặp nhau, ắt hẳn nàng đã khóc đến đứt từng khúc ruột. Mấy năm nay, họ hoàn toàn không có tin tức của nhau, chỉ có thể giữ thước phim ấm áp của quá khứ để chữa lành vết thương. Biết rõ là một sự chờ đợi không có kết cục, nhưng nàng vẫn si dại chờ ở ngã tư đường lúc ly biệt, lừa dối bản thân có lẽ sẽ có kỳ tích xảy ra. Nhưng nỗi si tình của nàng chỉ đổi lại ánh mắt khác thường của mọi người, và những lời nhiếc móc tàn nhẫn của người nhà. Khi nhiều cô gái cùng trang lứa với nàng lần lượt xuất giá, lý do mà nàng đưa ra thật là bạc nhược, yếu ớt.

Tsangyang Gyatso thật sự đã trách lầm nàng, nàng kiên trì đến cuối cùng bằng sự quyết liệt của mình. Dù người dân Monpa thuần phác đôn hậu, nhưng họ cũng không cho phép một cô gái trẻ tuổi si dại chờ đợi vì một lời ước hẹn không kỳ hạn. Bất kể nàng có bao nhiêu tuổi xuân có thể lãng phí, cũng không thể sánh với thời gian bất tận. Nếu Tsangyang Gyatso đặt mình vào hoàn cảnh của nàng mà nghĩ cho nàng, nhất định sẽ hối hận khi bản thân viết ra câu thơ tàn nhẫn như vậy. Nếu nói phụ bạc, là Ngài rời khỏi trước, tuy có nỗi khổ, nhưng rốt cuộc vẫn là Ngài phụ nàng. Từ lúc Ngài vào ở trong cung Potala, có nghĩa tất cả lời thề đều sẽ hóa thành tro bụi, Ngài chẳng có tư cách sở hữu tình yêu, chẳng có tư cách oán trách cô gái vô tội ấy thay lòng gả làm vợ người khác.

Chỉ cần Tsangyang Gyatso nhắm mắt suy nghĩ, thì có thể nhìn thấy tình cảnh thê lương của ý trung nhân, nàng chờ đợi trong tuyệt vọng, cuối cùng không chịu đựng nổi lời chỉ trích của mọi người, rưng rưng nước mắt khoác áo cưới, làm cô dâu của người khác. Suốt đời này, nàng làm sao còn có thể có được hạnh phúc chân chính? Mối tình đầu chôn trong đáy lòng, mỗi năm, nỗi nhớ đều theo cỏ xuân lan tràn, linh hồn nàng định sẵn không yên ổn vì Ngài. Nếu nàng đọc được bài thơ của Tsangyang Gyatso, lại sẽ thổn thức rơi lệ ra sao? Có lẽ chúng ta không nên oán trách ai, duyên phận bạc bẽo ấy đã khiến họ đau lòng cùng cực, làm sao nỡ chỉ trích làm thương tâm thêm.

Đây phải là lúc Tsangyang Gyatso sa sút nhất, đau khổ nhất. Kiếp sống con rối năm năm, khiến lý tưởng tự mình chấp chính của Ngài tan vỡ, giờ đây lại nếm trọn nỗi đau thất tình xé lòng, khiến Ngài nguội lòng nản chí. Vị Phật sống đau khổ tuyệt vọng không thể tịnh tâm để suy xét mọi việc. Ngài không biết, cục diện chính trị của Tây Tạng lúc đó vẫn đang lung lay trong gió, dã tâm của Lha-bzang Khan[2] khiến Đệ Ba Sangye Gyatso không dám có mảy may sơ suất. Dù không bị dục vọng quyền lực thúc đẩy, Sangye Gyatso cũng không dám giao chính quyền cho một đứa trẻ tiếp xúc sự đời chưa nhiều, chưa từng tham gia chính sự. Tsangyang Gyatso làm sao hiểu rõ, đấu tranh chính trị khốc liệt vượt xa đấu tranh tình cảm, một trận giết chóc sẽ đem đến tổn thương thê thảm nhất trần gian, sẽ khiến người dân khốn khổ. Tổn thương tình cảm tuy là địa ngục nhân gian, nhưng cá nhân so với chúng sinh, sẽ tỏ ra quá đỗi nhỏ bé.

[2] Lha-bzang Khan (La Tạng Hãn): cháu của Gushi Khan (Cố Thủy Hãn), thủ lĩnh của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đặc).

Nhà Phật tin vào nhân quả, lẽ nào tất cả cảnh ngộ hôm nay của Tsangyang Gyatso là nhân Ngài đã từng gieo, phải gặt lấy quả? Mấy năm nay, cuộc đời Ngài có biến hóa biển biếc nương dâu, đây lẽ nào chính là đau khổ mà Phật sống phải gánh chịu, cái giá phải trả ra? Nếu phải, Ngài chẳng có lời nào để nói, cứ xem là phúc báo của đời này vậy. Hy vọng trải qua kiếp nạn này, ngày tháng về sau, có thể trời cao biển rộng. Nhưng Ngài vẫn cảm thấy một nỗi tuyệt vọng trước giờ chưa từng có, vì Ngài uổng là Phật sống, đừng nói cứu giúp người đời, ngay cả bản thân mình cũng không giải thoát được.

Lời thề trong dĩ vãng đều đã thành mây khói. Câu chuyện của hôm nay cũng đã kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu rõ, tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng trên bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn. Đời người, thật ra chính là một cuốn sách kinh không chữ, Tsangyang Gyatso đã tu luyện nhiều năm cũng đọc không hiểu, tham không thấu. Trong lúc bất lực, Ngài đành hướng về Đức Phật, đưa ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu.
Chương 19: Bến đò

Bất cứ một ai tin vào duyên phận đều sẽ hiểu rõ, tình duyên trên đời này nên hợp thì hợp, nên tan thì tan, khi duyên phận đã hết, một khắc cũng sẽ không lưu lại.

Bất cứ một ai tin vào duyên phận đều sẽ hiểu rõ, tình duyên trên đời này nên hợp thì hợp, nên tan thì tan, khi duyên phận đã hết, một khắc cũng sẽ không lưu lại. Có lúc duyên phận giữa người với người chẳng bằng một ngọn cỏ, cỏ còn có thể trải qua xuân tươi thu héo, còn duyên phận mỏng manh, ngắn ngủi như một giấc mộng đêm xuân. Đúng vậy, tựa hồ có một giấc mộng, sau khi tỉnh mộng, bạn đứng lặng hồi lâu trước cửa sổ trong gió lạnh, phát giác mình lại trở về buổi ban đầu của sinh mệnh, chẳng còn gì cả. Nhưng tuy rằng trắng tay, phải chăng vẫn còn trong sạch? Còn tinh khiết?

Nhà thơ Đài Loan Tịch Mộ Dung từng có một bài thơ, “Bến đò”.

Cho em nắm lấy tay chàng,

Giã từ, rồi lại nhẹ nhàng rút tay.

Nhớ nhung bén rễ từ đây,

Lâng lâng như ở trên mây bồng bềnh.

Núi sông vốn dĩ trang nghiêm,

Vì ly biệt, bỗng trở nên dịu dàng.

Cho em nắm lấy tay chàng,

Giã từ, rồi lại nẹ nhàng rút tay.

Tháng năm ngưng đọng từ đây,

Trong tim lệ nóng sánh tày sông sâu.

Muôn vàn bất lực nhìn nhau,

Bến đò trống trải, tìm đâu hoa cài.

Đem lời chúc phúc tặng ai,

Ngày mai, hai đứa ở hai phương trời…

Bến đò của Tịch Mộ Dung là bến đò của ly biệt, tràn đầy tình cảm nhớ mãi không quên và tâm ý chia tay lưu luyến. Những năm qua, không biết đã cảm động bao nhiêu người si tâm không đổi vì tình yêu. Cũng không biết bắt đầu từ lúc nào, tôi đã thích bến đò, bến đò của đời người, bến đò của năm tháng. Thuyền bè qua lại xuất phát từ nơi này, lại từ phương xa trở về nơi này. Do đó, gặp gỡ cũng là bến đò, ly biệt cũng là bến đò, duyên đến cũng là bến đò, duyên đi vẫn là bến đò. Hai chữ “bến đò” ẩn chứa quá nhiều tình cảm của đời người, tụ hợp ly tan. Bến đò của tôi, có lẽ là thanh đạm, sẽ không có nhiều khách qua đường lai vãng, chỉ ngẫu nhiên có kẻ lênh đênh trôi giạt đi ngang, mây nhạt gió nhẹ.

Tôi nghĩ đến bến đò của Tsangyang Gyatso, cũng là ly biệt. Khi Ngài được biết ý trung nhân làm vợ người khác, trái tim vốn đã tan tác tả tơi của Ngài càng bị nghiền nát thành tro bụi. Thật ra năm xưa Ngài bị đưa vào cung Potala có nghĩa là duyên phận của họ đã triệt để kết thúc, có nghĩa giữa họ từ đó định sẵn mỗi người một phương. Ngày thu ấy là bến đò ly biệt của đời người, một người vì nợ cũ của kiếp trước đi xa đến chân trời, một người vì ước hẹn không có kết cuộc chờ đợi hư vô. Tsangyang Gyatso là vua của cung Potala, là một vị vua không có vương hậu. Tình yêu trong tòa cung đẹp đẽ này đã trở thành một truyền thuyết xa xưa. Songtsän Gampo và công chúa Văn Thành từng có một tình yêu, nhưng sau khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala, nơi này đã trở thành đạo tràng bồ đề không trai gái yêu đương, rời xa mộng tưởng điên đảo.

Đối với Tsangyang Gyatso, tất cả những điều này thật sự là quá trễ tràng. Người ta nói tình yêu là thuốc độc, Ngài đã trúng độc quá nặng. Nếu trước giờ chưa từng có bắt đầu, nếu khi chưa tỏ việc đời Ngài đã bị đem vào cung Potala dốc lòng học tập kinh văn, có lẽ Ngài sẽ là một vị Lạt Ma không hiểu tình yêu, không có dục vọng. Trong ấn tượng của chúng ta, luôn cảm thấy Phật là vô tình, vì Người không thể có tình, không thể rơi lệ. Nhưng nếu Phật thật sự vô tình, sao lại đem lòng thương xót độ hóa chúng sinh? Nhà Phật có quá nhiều thanh quy giới luật, lẽ nào tuân thủ thanh quy, quy ẩn núi sâu rừng thiền, không hỏi mọi việc trên đời, chính là đắc đạo, chính là từ bi hay sao? Còn một nhà sư lưu luyến tình ái, ăn thịt uống rượu, truyền dương Phật pháp ở chốn sâu hồng trần, lại trở thành tội ác hay sao?

Việc khiến nhiều người nghi hoặc trên thế gian này quá nhiều, chúng ta không thể khắc chế dục vọng của mình, vậy thì vì sao phải oán trách tham sân si luyến của kẻ khác? Lẽ nào Phật thì phải triệt để vô tư, Phật thì phải sống vì đông đảo chúng sinh? Nếu như Tsangyang Gyatso không phải là linh đồng chuyển thế, cuộc đời của Ngài sẽ là một cảnh tượng khác, trong không gian nhỏ hẹp thuộc về Ngài, bình dị yên ổn, không tiếng không tăm. Chẳng có nếu như, Ngài đã ngồi trên ngai Phật chót vót của cung Potala, thì phải trả giá vì vinh dự chí tôn. Ngài đã bị quấy nhiễu, bị thế tục quấy nhiễu, bị tình cảm quấy nhiễu, do đó Ngài không vui vẻ, do đó viết nên câu thơ bất lực dường này.

Một là đừng gặp gỡ,

để khỏi quyến luyến nhau.

Hai là đừng quen biết,

để khỏi tương tư nhiều[1].

[1] Đào Bạch Liên dịch

Nếu thế giới này chẳng ai quen biết ai, có lẽ sẽ thật sự yên tĩnh không một tiếng động. Nhưng im lìm như vậy còn được xem là nhân gian khói lửa hay sao? Tsangyang Gyatso nói không gặp nhau, không biết nhau, nhưng bất cứ một ai tồn tại chốn phàm trần đều không thể nào chẳng gặp nhau, chẳng nợ nhau. Nhớ lại câu thơ của Nạp Lan Dung Nhược[2]: “Nhân gian nhược chích như sơ kiến (Đời người nếu chỉ như gặp gỡ lần đầu)”. Mỗi người đều mong mỏi cuộc gặp gỡ giữa người và người thuở ban đầu đều đẹp đẽ như thế, thuần nhất như thế. Không có tổn thương, không có bụi bặm, không có tình yêu sâu đậm, cũng không có oán hận thấu xương. Thử hỏi, đời người như vậy, còn có mùi vị gì?

[2] Nạp Lan Tính Đức, tự Dung Nhược (1655-1685), là một nhà thơ người Mãn Châu đời nhà Thanh, tài hoa nhưng yểu mệnh, được tôn là “Người viết từ hay nhất đầu đời Thanh”. Ông để lại nhiều tác phẩm thấm đẫm nỗi sầu bi, lụy khổ.

Đã lạc vào phàm trần, thì nên tuân thủ quy tắc của phàm trần, không sợ sống chết, dám yêu dám hận. Dù bị khói lửa cay xè đến nước mắt đầm đìa, cũng phải thúc ngựa vung roi, nhảy sóng chèo thuyền, dốc toàn lực sống mái một trận, không chừa đường lui. Tuy nói là thế, khi bạn bị gió mưa đao kiếm đả thương đến ngàn trăm lỗ thủng, ai là người trị thương cho bạn? Có mấy ai là dũng sĩ chân chính, đứng đầu sóng ngọn gió, đợi phán xét của vận mệnh, chờ thời gian đến chia cắt. Không ai thật sự nguyện ý nhìn thấy người dân khốn khổ, máu thịt bầy nhầy, lòng của nhiều người đều hướng đến hòa bình, hướng đến yên ổn. Cho nên mới theo đuổi sự lãng mạn và nhu tình, mới yêu thích thơ của Tsangyang Gyatso, mới tha thứ tội lỗi mà Ngài, thân là Phật vẫn lưu luyến tình ái nhân gian, phạm phải.

Có người nói, Tsangyang Gyatso thật sự là cố giữ sai lầm không chịu tỉnh ngộ. Thời gian tròn năm năm, ra sức học tập kinh văn, tham ngộ Phật pháp, lại vẫn không tránh khỏi trận tình kiếp to lớn này. Thơ của Ngài khiến mọi người chứng thực thân phận tình tăng của Ngài, trong cả quá trình tu Phật, Ngài trước sau không quên người đẹp phấn hồng. Cũng có người nói, đây mới là Tsangyang Gyatso chân chính, một người chí tình chí tính, người thâm nhập hồng trần, mới có thể tu luyện thành Phật. Phật không phải là hư vô, Phật cũng là hóa thân của con người, vì tham thấu mọi việc trên đời, mới đứng ngoài cuộc, nhàn tản trên mây. Có lẽ trong quá trình tu hành, Tsangyang Gyatso nhất thiết phải trải qua tình kiếp mới có thể thành Phật, một vị Phật trong thế giới Sa-bà[3], độ hóa chúng sinh.

[3] Thế giới Sa-bà (Ta-bà, Samsara): Theo kinh điển Phật giáo, các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Sa-bà hay còn gọi là Tam Giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Chúng ta rất muốn biết, sau khi thất tình, Tsangyang Gyatso rốt cuộc sẽ lựa chọn lại một phương thức sống ra sao. Phải chăng Ngài sẽ bước ra khỏi vũng bùn tình cảm, đoạt lại quyền trượng từ tay Đệ Ba Sangye Gyatso, dùng địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng của Ngài, bắt đầu thật sự nắm giữ quyền lực chính giáo? Hoặc là từ đó an phận thủ thường nghe lệnh Như Lai, tịnh tâm tham thiền trong cung Potala? Hiển nhiên tất cả những điều này đều không phải, tính tình của Ngài đã định sẵn cuộc đời nay mai của Ngài. Cũng giống như một vở kịch, lúc bắt đầu, chúng ta đã có thể đoán trước kết cuộc. Dù là như thế, chẳng mấy ai có thể bình tâm tịnh khí quan sát cả quá trình, tâm tình chúng ta vẫn thấp thỏm theo từng tình tiết.

Thật ra cục diện chính trị Tây Tạng lúc đó một bầu hỗn loạn, mà Tsangyang Gyatso lại chìm đắm trong cảm xúc bi thương cá nhân không thể tự thoát ra. Tsangyang Gyatso không hề để tâm quyền thế, thậm chí không để tâm địa vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 của Ngài. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài chẳng có mảy may cống hiến và giáo hóa đối với chúng sinh, chỉ là phương thức Ngài lựa chọn khác hẳn. Ngài dùng tình cảm chân thành và từ bi khiến người đời cảm nhận được, Phật pháp không phải là cao không với tới, thiền không chỉ là vì siêu độ bản thân, tu luyện kiếp sau. Kiếp này lòng của chúng ta đã đầy đủ nông nổi, cần thơ ca tràn đầy linh tính và nhu tình của Ngài để tịnh hóa, chỉ có kiếp này đạt được giải thoát, mới sẽ có luân hồi kiếp sau.

Ngài rốt cuộc vẫn là Tsangyang Gyatso, dục vọng quyền lực và tình yêu, Ngài chọn lựa điều sau. Đối với người hướng đến thế giới tinh thần, tình yêu là thứ cực kỳ xa xỉ, người thật sự có thể sở hữu nó không nhiều, càng huống chi là một vị Phật sống không thể tiêm nhiễm tình cảm nhân gian. Biết rõ như thế, Ngài vẫn cô độc ngạo nghễ đi tiếp, xem như không có mục đích, tùy tiện bay bổng, nhưng trong lòng Ngài biết rõ mình rốt cuộc muốn điều gì. Cho dù thế giới của Ngài là gió sương mưa tuyết, những người si mê thơ tình của Ngài như chúng ta, lại có lý do gì chọn lựa nửa đường từ bỏ?
Chương 20: Phong tình

Có lúc thay vì tỉnh táo, nhiều người lại mong ước có thể sống mơ màng như kẻ trong mộng. Đó là vì đời người có quá nhiều gánh nặng, khi chúng ta không thể trốn tránh, thì đôi khi cũng cần buông thả.

Có lẽ chúng ta đề biết, chỉ cần sinh mệnh không đứt đoạn, câu chuyện đời người sẽ vẫn tiếp tục. Một câu chuyện kết thúc, đồng nghĩa một câu chuyện khác bắt đầu. Biết bao duyên phận đến đến đi đi, chúng ta sẽ có được những gì? Mất đi những gì? Nếu tất cả tình cảm mãnh liệt của một người đều hao mòn hết, phải chăng thế giới của anh ta từ đó sẽ yên lặng vắng vẻ?

Có người nói, nếu bạn thật sự đã chán ngán thành phố xô bồ, hãy chọn cách một mình đi xa đến chân trời. Đến trấn nhỏ Ô Trấn[1] mộc mạc yên tĩnh, đến thành cổ Lệ Giang[2] u nhã mà lại phong tình, hoặc đến Tây Tạng, cao nguyên cách bầu trời rất gần, có thể tiện tay hái lấy mây trắng. Nhưng những nơi ấy thật sự là yên tĩnh ư? Sẽ không xảy ra chuyện gì sao? Trong phim Dòng chảy thời gian[3], cô Anh đến Ô Trấn một lần, liền nảy sinh một mối tình ghi lòng tạc dạ với cậu Văn người Ô Trấn, khó mà thoát ra. Dưới ánh mặt trời[4] trên Kim Đỉnh núi tuyết Ngọc Long[5] ở Lệ Giang, có một đôi nam nữ dùng mạng sống khắc họa tình yêu ở đây. Còn Tây Tạng từng có một vị tăng như Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, mảnh đất này, dù từng hoang vu ra sao, về sau đều sẽ nở đầy hoa tình.

[1] Ô Trấn: thị trấn cổ nằm ở phía bắc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

[2] Lệ Giang: đô thành cổ nằm ở tây bắc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, là nơi sinh sống của các dân tộc Bạch, Nạp Tây và Tạng. Thành cổ Lệ Giang (bao gồm Đại Nghiên, Thúc Hà và Bạch Sa) đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1997.

[3] Dòng chảy thời gian: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Tự thủy niên hoa”, các diễn viên Huỳnh Lỗi (vai Văn) và Lưu Nhược Anh (vai Anh), một phần ngoại cảnh được quay ở Ô Trấn.

[4] Dưới ánh mặt trời: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Nhất mễ dương quang”, các diễn viên Hà Nhuận Đông, Tôn Lệ, một phần ngoại cảnh được quay ở Lệ Giang.

[5] Núi tuyết Ngọc Long: một dãy núi gần Lệ Giang, tỉnh Vân Nam, Trung quốc, có tất cả mười hai đỉnh núi cao trên 5.000m quanh năm tuyết phủ, đỉnh cao nhất là Phiến Tử Đẩu cao 5.596m.

Ở khu phố cổ của Lhasa, có một con đường đi kora là phố Barkhor[6]. Người đến đây nhất định sẽ không quên ghé vào một nơi. Kiến trúc của phố Barkhor đa số đều là màu trắng, riêng góc đông nam của phố Barkhor có một tòa lầu nhỏ hai tầng sơn toàn sắc liệu màu vàng, đây chính là quán rượu Makye Ame[7] nổi tiếng, cung điện bí mật của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso năm xưa. “Makye Ame” là một truyền thuyết đẹp lưu truyền ở Tây Tạng, có ý nghĩa là “người mẹ thánh khiết, thiếu nữ thuần khiết”, hoặc có thể mở rộng là “giấc mơ đẹp đẽ”. Tsangyang Gyatso từng là một anh chàng đẹp trai phong lưu hào phóng ở quán rượu nhỏ này, Dangsang Wangpo. Sự xuất hiện của Ngài sẽ khiến tất cả ánh mắt trong quán Makye Ame đều ngưng đọng.

[6] Phố Barkhor: hay phố Bát Giác, là con đường đi kora xung quanh chùa Jokhang (Đại Chiêu Tự), Lhasa.

[7] Mã Cát A Mễ.

Mặt trăng sáng vằng vặc,

Trên đỉnh núi phía đông.

Khuôn mặt nàng rạng rỡ,

Hiện lên nơi đáy lòng

Bao nhiêu năm đã trôi qua, bài thơ Tsangyang Gyatso viết cho Makye Ame vẫn lưu truyền đến nay. Ngài chân thực bày tỏ tâm ý tốt đẹp của trai gái hồng trần, quán rượu Makye Ame, vì Tsangyang Gyatso, đã chất chứa phong tình mà nơi khác không có. Biết bao khách qua đường đi ngang chốn này, trong quán rượu tràn trề vẻ dịu dàng, nhấm nháp một ly rượu ngon, lưu lại chút ít cõi lòng. Tên tuổi xa lạ, mặt mũi xa lạ, không ai quen biết ai, nhưng họ thật sự đã gặp nhau. Ở cùng một nơi, nghĩ đến cùng một người, một người đã rời xa ba trăm năm, hồn phách của Ngài phải chăng sẽ vào lúc đèn hoa vừa thắp sáng trôi dạt đến chốn này? Ở đây, cùng một cô gái trẻ tuổi thời nay, kết một đoạn duyên phận mỏng manh, chỉ một đêm say thôi, tới khi trời sáng lại ai đi đường nấy.

Tsangyang Gyatso bị cung Potala giam cầm đã năm năm, đã trải qua đau khổ thất tình, đã chịu đựng kiếp sống con rối, trái tim của Ngài bắt đầu rạo rực, như cỏ xanh lan tràn ngoài cửa sổ, như làn gió ấm áp tháng tư. Chẳng biết là thử thách của Phật tổ đối với Ngài, hay là trong số mệnh Ngài định sẵn sẽ có một giấc mơ đẹp đẽ, hoặc là vì nguyên nhân nào khác. Tsangyang Gyatso vào một ngày vô ý, phát hiện trong chiếc lồng son đẹp đẽ này hóa ra có một cửa ngách nho nhỏ không người qua lại, không người canh giữ, điều này có nghĩa là Ngài có thể từ trong cửa ngách lẻn ra ngoài, thông qua con đường này đến thành cổ Lhasa.

Con đường này đem đến cho gian phòng đóng kín một làn ánh sáng ấm áp, cũng tiếp dòng máu mới cho trái tim sắp sửa lạnh ngắt của Tsangyang Gyatso. Ngài vứt bỏ năm năm khép mình vào khuôn phép, không nhu nhược nữa, Ngài phải nhân lúc nửa đêm không người từ cửa ngách đi ra ngoài, đến thành Lhasa tươi đẹp, sống hết mình một lần vì bản thân. Nơi náo nhiệt nhất ban đêm, chính là một quán rượu nhỏ trên phố Barkhor. Tsangyang Gyatso bước ra cửa ngách, thay trang phục hoa lệ, đội mái tóc giả đẹp đẽ, trong nháy mắt Ngài lắc mình biến thành một chàng trai anh tuấn tiêu sái. Ngài tự đặt một cái tên, gọi là Dangsang Wangpo[8]. Ngài phải đến một quán rượu đèn đuốc huy hoàng, dự một buổi yến tiệc thịnh soạn của tuổi thanh xuân, tạm biệt thân phận Phật sống, Ngài sẽ là tình lang đẹp nhất thành Lhasa.
» Next trang 5

Doc truyen online mien phi moi nhat hay nhat - KenhTruyen.Hexat.Com

Copyright © 2018 KenhTruyen.Hexat.Com - All rights reserved.
Wapsite Đọc Truyện online được tổng hợp từ nhiều nguồn trên internet.
Được phát triển bởi Trái Tim Băng™ và tất cả các thành viên.