Năm xưa cho rằng sơn cùng thủy tận, đi đến tình cảnh không có lối thoát, nhưng hiện nay lại cảm thấy đường đi xa thẳm, phương xa rất xa. Đến sau cùng, du ngoạn chốn phù thế hồng trần, Tsangyang Gyatso đã học được sân vắng dạo bước.
Phải đọc một bài thơ xao xuyến lòng người như thế nào, mới không kinh động tâm tình đã bình tĩnh? Nên kể lại câu chuyện của một khách qua đường như thế nào, mới không xáo trộn ngày tháng đã đi vào yên ổn? Tình cảm và vận mệnh của con người tựa như mây trôi bồng bềnh không thể nắm bắt, lúc tụ lúc tan, lúc ly lúc hợp. Chúng ta rốt cuộc hiểu biết bao nhiêu về nhân quả? Nhân của kiếp trước, quả của kiếp này, nhân của hôm qua, quả của hôm nay. Lẽ nào nhân quả luân hồi, thật sự sẽ đến một cách chính xác chẳng sai, không xuất hiện mảy may sai sót và lệch lạc?
Nhiều người từng đọc "Bí truyện" của Ngawang Lhundrup Daji, sẽ không tự chủ được khiến mình chìm đắm trong nó, vờ như những câu chuyện này Tsangyang Gyatso từng trải qua, dần dà lâu ngày, đã biến thành thật. Đây không xem là dối mình dối người, con người phải học cách tự mình điều tiết, mới có thể đạt được càng nhiều vui vẻ và thỏa mãn. Nếu một mực chấp nhất với chân tướng, sẽ mất đi nhiều quá trình tưởng tượng tốt đẹp, mất đi ý nghĩa theo đuổi vốn có.
"Trong khoảnh khắc, tưởng chừng trời rung đất chuyển, bão tố dữ dội nổi lên, nhất thời tối sầm không phân biệt được phương vị. Bỗng nhiên, thấy trong gió bão có ánh lửa chập chờn, ngắm kỹ, lại hóa ra một phụ nữ ăn mặc kiểu người chăn nuôi đi ở phía trước, tôi đi theo sau bà ta, mãi đến lúc bình minh, người phụ nữ đó lặng lẽ ẩn đi, gió bão cũng ngưng, mặt đất mênh mang, chỉ sót lại cát vàng và khói bụi vô tận." Đoạn văn này là ghi chép trong "Bí truyện" của Ngawang Lhundrup Daji.
Tsangyang Gyatso rời hồ Thanh Hải, một mình đi về phía trước trong gió bụi mênh mang, sau đó đã có lần gặp gỡ này, còn người phụ nữ này là Thiên Mẫu, chỉ hiện thân giúp Ngài thoát hiểm. Cuộc gặp gỡ thần kỳ ấy càng thêm ít nhiều sắc thái thần thoại cho Tsangyang Gyatso vốn đã ly kỳ. Đừng xét nét thật giả của chuyện này, tóm lại Tsangyang Gyatso đã thoát khỏi nguy hiểm, không còn là tù phạm bị mấy ngàn người áp giải về kinh thành. Xem ra Tsangyang Gyatso kiếp này thật sự không có duyên với tòa hoàng thành ấy, Ngài thuộc về đất Tạng bao la, chỉ có ở đây, hồn phách mới chẳng cô độc không nơi nương tựa.
Đây là tự do Tsangyang Gyatso lần đầu tiên có được từ sau khi mười lăm tuổi vào ở trong cung Potala. Ngắm áng mây bồng bềnh trên bầu trời quang đãng, ngắm chim ưng dang cánh chao liệng, cả đến gió mát lướt qua bên người, tất cả đều khiến Ngài cảm thấy thoải mái trước giờ chưa từng có. Mọi thứ của hôm qua đã chết, Ngài chỉ sở hữu hôm nay và ngày mai. Tsangyang Gyatso không còn là vị Đạt Lai thứ 6 ngồi ngất ngưởng trên ngai Phật của cung Potala kia nữa, cũng không còn là chàng Dangsang Wangpo có thể lang thang trên đường phố Lhasa mặc ý uống rượu vui ngông kia nữa. Giờ đây bản thân Ngài cũng không biết mình là ai, không biết mình phải làm gì. Ngài chỉ biết mình là người tự do, có thể tùy ý đi lại ở vùng hoang nguyên rộng lớn này, dù chịu hết khổ nạn, cũng không oán không hối.
Nhiều năm qua, Tsangyang Gyatso tuy thân là thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, là Phật sống trong lòng trăm ngàn tín đồ, nhưng Ngài chưa từng thật sự vui vẻ. Bởi vì Ngài đã mất tự do, Ngài chính là chú chim sẻ lông vàng bị nhốt trong nhà đẹp, được cho ăn gạo ngọc kê vàng, vẫn tiều tụy trơ xương, u uất kém vui. Nếu không có đoạn nhạc xen giữa đẹp đẽ kia của quán rượu nhỏ Makye Ame, Tsangyang Gyatso có lẽ đã khô héo trong cung Potala, đời người chẳng còn vui thú gì. Trải qua một trận ảo diệt, Ngài cần sống lại, chỉ có sống lại mới có thể khiến Ngài tìm lại mọi thứ từng đánh mất.
Nhưng sau khi sống lại thật sự có thể sống theo ý nguyện của mình chăng? Sau khi Tsangyang Gyatso có lại tự do, việc Ngài nghĩ đến đầu tiên là các tín đồ ủng hộ Ngài, Ngài không quên được tình cảnh mình từ cung Potala bị áp giải ra ngoài, những sư sãi và tín đồ ấy rơi lệ ròng rã vì Ngài, chiến đấu quên mình vì Ngài, chảy máu hy sinh vì Ngài. Giờ đây Ngài được giải thoát, cũng là nhờ người Tạng giải cứu, nhờ Phật tổ từ bi. Ngài nên dùng Phật pháp tu luyện nhiều năm của mình, dùng trí tuệ tỉnh táo của mình, để cứu giúp đám người hèn mọn như sâu kiến ấy, cứu giúp chúng sinh vẫn chìm đắm trong ngu muội và khổ nạn ấy.
Phật Đà đã tiếp tục sinh mệnh của Ngài, nghĩa là đã trao cho Ngài sứ mệnh lớn hơn, trước sứ mệnh to tát, Ngài không thể lùi lại, đồng thời biết rõ con đường phía trước sẽ không bằng phẳng.
Trải qua dặm trường rong ruổi, Tsangyang Gyatso đã sức cùng lực kiệt, dọc đường ăn đói mặc rét, Tsangyang Gyatso lần đầu nếm được nỗi khổ đi xa. Một vị Phật sống đã sống quen cuộc sống an nhàn, từ đó trải qua những ngày lưu vong chân trời. Nếu Lha-bzang Khan biết Tsangyang Gyatso còn tồn tại trên đời, liệu y có tha cho Ngài không? Bị bức bách bởi thế lực của Lha-bzang Khan, Tsangyang Gyatso chỉ có thể dấu họ chôn tên, lưu đày nơi đất tuyết hoang nguyên. Dù khốn cùng, nhưng Ngài vẫn xem là đã có tự do, dù không thể xuất hiện với thân phận thật sự, nhưng Ngài có thể làm một người ẩn đời, làm một nhà sư vô danh vân du bốn bể. Dù chỉ là một lữ khách chân trời, Ngài cũng có thể vừa tu hành, vừa độ hóa chúng sinh dọc đường.
Hành trình gian nan, khổ nạn trùng trùng, Tsangyang Gyatso trà trộn trong dòng người đủ mọi sắc tộc, trải qua nhiều tao ngộ trước giờ chưa hề có. Thuở bé sống ở làng quê nhỏ yên bình, chưa từng biết thế giới bên ngoài rộng lớn dường này. Sau đó vào ở trong cung Potala to đẹp đường hoàng, càng không biết nhân gian còn có nhiều buồn khổ như vậy. Hóa ra trong hồng trần có nhiều khách phiêu bạt đến thế, bận rộn như sâu kiến vì sinh tồn mà vẫn không đổi được yên ổn bình dị nhất. Tsangyang Gyatso đi cùng những người này, cũng sống những ngày gió mưa lay lắt, Ngài từng ăn cơm thừa, từng ngủ hang động, thậm chí áo không che nổi thân, lo được bữa sớm, không chắc lo được bữa tối.
Tsangyang Gyatso từ Thanh Hải di chuyển đến Tứ Xuyên, du ngoạn Khang Định[1], lại dừng chân nhiều ngày ở Nga My[2], sau đó đến vùng Kham Tây Tạng. Chẳng may nhiễm phải bệnh đậu mùa ở nơi này. Ngài chịu đựng sự dày vò của bệnh tật và đói khát, năm lần bảy lượt chống chọi với thần chết. Ngài một mình khó nhọc vượt qua rất nhiều khổ nạn. Ngài không rõ, là ai đã biến nhân gian tốt đẹp thành luyện ngục. Cuộc sống lưu lạc nhiều năm sau đó khiến Ngài nếm trọn gió thảm mưa sầu của đời người, trải qua vô số kiếp nạn, Ngài xem tất cả những chuyện này là trừng phạt của Phật tổ đối với ngài, là mài giũa hữu ý của cao xanh.
[1] Khang Định (Dardo, Darzêdo) là một huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư (Garzê), tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
[2] Nga My: một ngọn núi nằm ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, là một trong tứ đại Phật giáo danh sơn, được cho là đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Núi Nga My cùng bức tượng Đại Phật Lạc Sơn được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1996.
Lưu lạc nhân gian, trải qua khổ nạn dày vò khiến Tsangyang Gyatso cảm thấy, du hý nhân sinh trong quá khứ thật là không nên. Những kẻ thống trị cấp cao trên võ đài chính trị, vì quyền lực khiêu khích chiến tranh thật khiến người đời phẫn nộ. Bản thân mình thật uổng làm Phật sống nhiều năm, uổng đọc mấy năm kinh Phật, lại chưa từng mảy may giúp đỡ cho những chúng sinh tín ngưỡng Ngài. Lẽ nào sứ mệnh của Ngài không phải là vì hạnh phúc của chúng sinh? Lẽ nào Ngài có thể vì thú vui hưởng lạc của mình mà không quan tâm, không chăm lo cho họ? Lẽ nào Ngài không nên vô tư bước ra, một mình đứng nơi tăm tối và vẩn đục, gánh chịu khổ nạn vì dân chúng, cho họ ánh sáng và ấm áp?
Mọi thứ ngày hôm qua tựa như trăng trong nước, hoa trong gương, lúc đó Ngài chìm đắm trong mộng đẹp, còn hay oán trời trách người. Ngày nay mới biết, lẽ ra Ngài nên sớm tỉnh khỏi giấc mộng, đi vào trong chúng sinh, để đóa sen tinh khiết nỡ giữa chốn bụi trần, mới có thể có sự trình bày với Phật tổ, trình bày với những tín đồ từng lễ bái Ngài, cũng trình bày với bản thân. Dùng linh tính và tuệ căn của Ngài, độ hóa chúng sinh, khiến họ thoát khỏi khổ nạn và ngu muội, từ đó khiến linh hồn đạt được siêu thoát chân chính.
Năm xưa cho rằng sơn cùng thủy tận, đi đến tình cảnh không có lối thoát, nhưng hiện nay lại cảm thấy đường đi xa thẳm, phương xa rất xa. Đến sau cùng, du ngoạn chốn phù thế hồng trần, Tsangyang Gyatso đã học được sân vắng dạo bước. Cơm thừa canh cặn, Ngài nếm ra mùi vị Ban Nhược; gửi thân đất tuyết hoang nguyên, Ngài như ngồi ngay ngắn trên mây. Vinh hoa phú quý của dĩ vãng đã là mây nước; phong hoa tuyết nguyệt một thời xem như ảo mộng.
Chương 47: Đơn độc
Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt khôn lường. Có lẽ Ngài sống chỉ là vì mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải.
Đời người chính là một chuyến du lịch, dù đeo tay nải mải miết phiêu bạt trên đường, hay có chỗ ở yên thân, đều là đang nhàn du. Thời gian xưa nay đều không dừng lại, dẫu chúng ta nấp ở một chốn thế ngoại đào nguyên không có rối ren, cũng vẫn phải xem hết hoa xuân trăng thu, phải trải qua sinh lão bệnh tử. Một ngày kia, phồn hoa cuối cùng sẽ trôi xa, một ngày kia, chúng ta đều sẽ cô độc già đi. Ngắm xong mùa xuân muôn hồng ngàn tía cuối cùng trong sinh mệnh, hạt bụi trần nhỏ bé này nên trở về chốn nào?
Biển người trôi nổi, ngày ngày đều có nhiều cuộc gặp gỡ và tương phùng như thế, vì sao người đi lướt qua nhau lại là bạn và tôi? Ngày ngày đều có nhiều duyên phận ước hẹn như thế, vì sao người chờ đợi ngày này qua ngày nọ vẫn là bạn và tôi. Chúng ta luôn mong mỏi người khác đến cứu rỗi, lại không biết con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người. Chúng ta luôn ở trong biển biếc của mình, kể chuyện nương dâu của người ta, lại không biết có một ngày, nương dâu của mình vừa khéo là biển biếc của người khác. Ván cờ nhân sinh này, nếu cố chấp phải đi tiếp theo cách nghĩ của mình, kết quả sẽ là cả ván đều thua, non sông đều mất.
Khi phiêu bạt, tôi thường nhớ đến Tsangyang Gyatso. Trước giờ tôi không mong mỏi vị tình tăng nhu nhược này có thể cứu rỗi tôi từ hồng trần, vượt qua sông nước mênh mang của đời người, cập bến bờ bên kia sen nở. Vì tôi biết, Ngài và chúng ta không có khác biệt. Từ sau khi Ngài rơi vào phàm trần, chọn lựa tình yêu, tôi đã biết Ngài không quay về được nữa. Trong thơ ca thắm thiết cảm động lòng người của Ngài, tôi đã đọc ra kiếp trước đời này của Ngài, một người vì Phật mà say mê hông trần, lại định sẵn phải gìn giữ trọn đời vì tình yêu. Ngài là Phật sống, ai có thể phê duyệt số mệnh cho Ngài, nói với Ngài đến cuối cùng phải chọn lựa tư thế nào mới sống được thật tốt chốn nhân gian khói lửa?
Nếu nói quãng thời gian trước mười lăm tuổi của Tsangyang Gyatso là kiếp trước của Ngài, thế thì quãng thời gian Ngài vào trong cung Potala chính là kiếp này, còn trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji là kiếp sau của Ngài. Ngài của kiếp trước chỉ là một thiếu niên làng quê lặng lẽ không ai hay biết, chẳng có bao nhiêu ham muốn, nhàn nhã tự tại. Ngài của kiếp này thì có mấy kiểu cực đoan, từ thiếu niên vô danh lắc mình biến thành Phật sống. Ngài đã sở hữu quyền lực cao nhất, tình yêu đẹp nhất, cũng mất đi tự do của người bình thường. Có người nói, là vì kiếp này Ngài phung phí bằng hết mọi thứ tốt đẹp, do đó mới có kiếp sau lưu lạc cùng khốn.
Có lẽ trong lòng mỗi người đều có một tâm trạng hoài niệm, phảng phất gặp gỡ ban sơ mãi mãi đều là đẹp nhất. Dù già đi bao nhiêu tuổi, điều chúng ta có thể nhớ được vẫn chỉ là ngày hôm qua ố vàng. Có lúc, lật mở một cuốn sách, nhìn thấy trong trang bìa kẹp một phiến lá rụng ta sẽ vui mừng khôn xiết, vì trên gân lá chạm khắc dấu ấn của tháng năm, cũng lưu giữ những tình cảm ấm áp của ngày xưa. Đi qua chặng đường nhân sinh dài dằng dặc, cuối cùng thứ hoài tưởng vẫn là những dĩ vãng xanh rì ấy. Kỳ thực thuở ban đầu chưa chắc đã là tốt đẹp nhất, nhưng tính cố chấp sẽ khiến bạn và tôi luôn chẳng quên được sự tốt đẹp của ngày hôm qua.
Tsangyang Gyatso lưu lạc ở dân gian, cũng từng vô số lần không thể tự chủ hoài niệm quá khứ. Dù Ngài tự nhủ, hồ Thanh Hải là khởi điểm cuộc đời của Ngài, thành Lhasa là cố hương Ngài không về được. Nhưng nhiều ngày lênh đênh không nương tựa, nhiều lần nửa đêm nằm mơ, Ngài vẫn sẽ nhớ nhung quán rượu nhỏ Makye Ame, sẽ tưởng nhớ người đẹp Qonggyai Dawa Dolma của Ngài, thậm chí không quên được con chó vàng già trung thành của cung Potala. Nhưng Ngài không viết được thơ tình nữa, tình ca buồn thương trăm mối ngày xưa, nay đọc lên, thật là ngôn từ lộn xộn. Có những cảm giác, một khi mất đi thì chẳng bao giờ tìm lại được nữa.
Những năm này, Tsangyang gyatso là một hành giả cô độc, nếm đủ chua xót và bất lực. Nhưng dọc đường Ngài đều giúp đời cứu người, thực hiện lời hứa của bản thân. Lại chưa từng dùng thân phận thật sự trước mọi người, nếu có ai hỏi đến cùng chỉ giả vờ không biết. Chỉ nói với người khác, mình từ nhỏ lưu lạc, không biết quê cũ ở đâu, cũng không biết cha mẹ là ai. Người dân hiền lành chất phác, xưa nay không hỏi nhiều, chỉ xem Ngài là khách qua đường phiêu bạt giang hồ như họ, vì miếng cơm manh áo, ăn mày chốn nhân gian. Cũng có người hiểu chuyện biết Ngài không phải là người phàm, nhưng chúng sinh vạn tướng, ai mà có thể chú ý đến nhiều như thế.
Năm 1709, Tsangyang Gyatso đã lưu vong bốn năm, từ Litang đi qua Batang[1], bí mật trở về Lhasa. Lhasa, đối với Tsangyang Gyatso, là một tòa thành số mệnh, một tòa thành đời này kiếp này đều chẳng thể lãng quên. Tòa thành này đã ban cho Ngài thân phận Thần Phật, cũng cho Ngài gặp gỡ người con gái định mệnh.
[1] Litang (Lý Đường), Batang (Ba Đường): hai huyện thuộc châu tự trị dân tộc Tạng Garzê (Cam Tư), tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Tòa thành này, khiến Ngài sở hữu tất cả, cũng hủy diệt tất cả của Ngài. Lần đó từ biệt cùng chúng sinh và cỏ cây trong thành, cho rằng suốt đời này không có duyên trở lại nữa, nhưng không ngờ Ngài lại chân thực đứng trong thành Lhasa, nhìn dòng người phàm trần hối hả lại qua.
Tòa thành này không mảy may biến đổi vì sự ra đi của Ngài. Từng cho rằng, Ngài thân là thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, trong một ngày lưu lạc làm tên tù dưới thềm, tòa thành này sẽ có những thay đổi long trời lở đất. Thế nhưng biến động ngày ấy không hề có nghĩa tương lai sẽ gió mây biến ảo. Có lẽ các tín đồ trước giờ chưa hề quên Ngài, nhưng họ rốt cuộc cũng chỉ là người dân bình thường, chỉ hy vọng gìn giữ một phần năm tháng tĩnh lặng, sống cuộc sống bình dị nhất. Xưa nay triều đại thay đổi, chỉ thay đổi vua chúa trên ngai báu, còn non sông muôn dặm vẫn trước sau như một, nào đã có nửa phần thay đổi. Có lẽ trên đời này, chẳng ai nên xem bản thân quá quan trọng. Vì bất cứ ai ra đi đều không thể khiến đất trời đổi sắc, nhật nguyệt mất màu, núi xanh vẫn còn đó, nước biếc vẫn chảy về đông.
Tsangyang Gyatso trở về thành Lhasa không dám phô trương qua phố, Ngài ẩn giấu thân phận của mình, gặp gỡ Thượng Sư của tu viện Drepung và tu viện Sera[2], trăm nỗi cảm xúc, vui mừng khôn tả. Họ cùng nhau bế quan tu luyện Phật pháp, không còn chàng lãng tử vì tình đêm khuya lẻn đi năm xưa nữa. Bế quan một năm, sau khi xuất quan, cuối cùng do thân phận đặc thù của Tsangyang Gyatso, không tiện ở lâu trong thành Lhasa. Bởi chỉ cần đôi chút sơ sẩy là có thể bị tai mắt của Lha-bzang Khan phát giác, đem đến cho Ngài tai nạn cực lớn lần nữa.
[2] Tu viện Sera (Sắc Lạp): cách Lhasa khoảng 5km về phía bắc, được xây năm 1419 bởi một đệ tử của Tsongkhapa.
Gặp lại thành Lhasa lần này giống như cách biệt một đời, chỉ đến lúc ly biệt, Tsangyang Gyatso mới biết hóa ra mình quyến luyến tòa thành này thế nào. Ngài không nỡ rời một nhành cây ngọn cỏ, từng mái bếp, nếp nhà trong thành, càng không quên được đoạn tình dang dở của kiếp này. Vấn vương hơn nữa cuối cùng cũng phải biệt ly, Ngài một mình đi trên đường phố Lhasa, vì ăn mặc giản dị mà không ai nhận ra Ngài là chàng Dangsang Wangpo phong lưu tiêu sái năm xưa. Ngắm một thoáng quán rượu nhỏ Makye Ame, một ngôi nhà nhỏ màu vàng rất đỗi bắt mắt. Bên trong vẫn khách khứa nườm nượp, họ vẫn là giang hồ của hôm qua, duy chỉ có Ngài không quay về được biển biếc năm đó.
Rời khỏi Lhasa, Tsangyang Gyatso tiếp tục lênh đênh biển trần, bốn bể là nhà. Năm 1712, Tsangyang Gyatso ba mươi tuổi, đã đến Kathmandu[3] của Nepal, ở đây chiêm ngưỡng biểu tượng Linga[4] của thần Shiva. Sau đó, lại theo quốc vương Nepal đến Ấn Độ hành hương. Tháng tư năm sau, Tsangyang Gyatso đã leo lên núi Linh Thứu[5], đây là nơi năm xưa Thích Ca Mâu Ni giảng kinh. Ở vùng tịnh thổ núi thiêng, chuyên tâm tu luyện một ngày mà đã hơn tu luyện ở đất Tạng một năm. Tsangyang Gyatso lúc đó một lòng hướng Phật, cũng đã có lĩnh ngộ sâu sắc đối với Phật pháp bao la tinh thâm. Ra khỏi núi Linh Thứu, Tsangyang Gyatso còn gặp được voi trắng trăm năm mới xuất hiện một lần của Ấn Độ.
[3] Kathmandu: thủ đô Nepal
[4] Linga là một biểu tượng thờ phụng của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Phái Shiva của Ấn Độ giáo coi Shiva là vị Thượng đế tối cao. Trong phái Smarta, Shiva là một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế. Trong một số trường phái Ấn Độ giáo khác, Brahma, Vishnu và Shiva đại diện cho ba khía cạnh thần thánh của Ấn Độ giáo và hợp chung thành bộ tam thần Trimurti: Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt hoặc biến đổi.
[5] Núi Linh Thứu (Gijjhakūta): nằm ở Rajgir, Bihar, Ấn Độ.
Năm 1714, Tsangyang Gyatso ba mươi hai tuổi, lần nữa trở về Lhoka, tu hành ở tu viện Tabu thuộc huyện Nang[6], Lhoka, được người bản địa tôn xưng là Đại su Tabu. Trong “Bí truyện”, Tsangyang Gyatso đã thực sự trở thành một vị cao tăng đắc đạo vân du bốn phương, đủ loại kỳ ngộ mà mọi người không sao tưởng tượng nổi. Dường như chỉ có như thế mới xứng với thân phận Phật sống của Ngài, chỉ có như thế, mới có thể viết tiếp truyền kỳ đời sau của Ngài.
[6] Nang: trước là một huyện của địa khu Lhoka. Năm 1982 địa khu Nyingchi thành lập, huyện Nang cắt về Nyingchi quản lý cho đến nay. “Nang” tiếng Tạng nghĩa là hiển hiện, tưởng tượng.
Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt không lời. Có lẽ Ngài sống chỉ là để mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải. Có lẽ Ngài đã dâng cho Phật tổ thời gian quãng đời còn lại, nhưng rốt cuộc vẫn phải bội bạc giai nhân. Kỳ thực chuyện của đời trước, đi qua cầu Nại Hà là đã quên sạch sành sanh, không rõ vì sao còn có nhiều nợ cũ khó hết, giục giã hoàn trả.
Chương 48: Chân trời
Chúng ta dường như nhìn thấy một Tsangyang Gyatso hoàn toàn mới, Ngài sớm đã thoát thai hoán cốt, tựa một đóa sen, khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống, Ngài cũng tìm được quả cuối cùng cho mình.
Tin rằng tất cả mọi người đều từng xao xuyến bởi một bài hát, vì giai điệu của nó, vì lời ca nào đó, hoặc chẳng có nguyên do, chỉ là cảm động đơn thuần. Nhớ nhung một người, hay hoài tưởng một người, luôn không nhịn được tự hỏi, rốt cuộc phải lúc nào mới có thể biển người gặp gỡ? Đúng vậy, biển người mênh mang, chúng ta sơ ý lạc mất nhau, một ngày kia đôi bên mưa gió quay về, phải chăng dung nhan đã thay đổi? Phải chăng vẫn có thể nắm được tay nhau?
Đêm nay tình cờ nghe được bài hát “Hóa ra anh cũng ở đây” của Lưu Nhược Anh[1], vì sự trùng hợp của một câu ca mà khiến tôi cảm động không thôi. “Gặp nhau trong biển người ngàn núi muôn sông, hóa ra anh cũng ở đây.” Tôi biết không nhiều về Lưu Nhược Anh, nhưng từng nghe nói, cô là một cô gái cảm tính, đã viết nhiều câu văn cảm tính. Sau đó xem phim “Dòng chảy thời gian” về Ô Trấn, bị nó lay động sâu sắc. Chỉ cảm thấy cô có một vẻ đẹp gột hết phấn son, giống Như cổ trấn vùng sông nước đó, bình tĩnh một cách từ tốn dưới mặt trời lặn.
[1] Lưu Nhược Anh (Rene Liu, sinh năm 1970): diễn viên, ca sĩ Đài Loan.
Cho em lắng đọng bụi trần,
Chôn vùi dĩ vãng âm thầm ngày xưa.
Từ biển, dãi gió dầm mưa,
Đến nơi sa mạc thớt thưa bóng người.
Ẩn tình đã rõ mười mươi,
Muôn ngàn ngôn ngữ không lời nói ra.
Yêu là trời đất bao la,
Hóa ra anh ở bên ta chốn này.
Người xưa giờ ở đâu đây,
Phải chăng chỉ có sum vầy trong mơ.
Tận sức liễu yếu đào tơ,
Đổi về hồi ức bâng quơ nửa đời.
Mắt anh khát vọng ngời ngời,
Tâm tình cứu rỗi em thời trông mong.
Biển người ngàn núi muôn sông,
Hóa ra lại gặp anh trong chốn này.
Có lẽ nhiều người sẽ hỏi, lời bài hát này và Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso có liên quan gì hay sao? Đúng, có liên quan. Kỳ thực vạn vật trên đời đều có liên quan, tình cảm con người cũng tương thông. Chẳng qua là yêu hận tình thù, tụ tan ly hợp, ngoài ra, còn có thứ gì? Nhưng có lúc, lại cảm thấy giữa người và người vốn chẳng chút dây mơ rễ má, bạn có tiền nhân của bạn, hắn có quả báo của hắn. Ai cũng không thể thay thế cuộc đời của ai, ai cũng không thể thay đổi số mệnh của ai.
Tsangyang Gyatso thần bí mất tích tại hồ Thanh Hải, cũng được xem là bụi trần lắng đọng, dùng trầm mặc chôn vùi tất cả quá khứ. Nếu không phải xuất phát từ tưởng tượng hư ảo, không phải vì một quyển “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, ai biết Tsangyang Gyatso phải chăng vẫn còn ở chốn nhân gian, ai biết Ngài cuối cùng ẩn tích đến nơi nào? Hoặc ẩn cư ở chốn núi rừng hoang dã tịnh không khói bếp nào đó, hoặc đã bắt đầu một chặng hành trình nhân sinh chẳng có mục đích. Còn cái tên này, sẽ mãi mãi tồn tại trong cảnh mộng của chúng ta, từ đây không rời không bỏ.
Bao nhiêu người truy tìm, khao khát gặp gỡ Tsangyang Gyatso giữa biển người, khao khát được Ngài cứu rỗi. Lại không biết, rời khỏi cung Potala, Ngài không còn là vị Phật sống chí cao vô thượng, phóng khoáng giang hồ, thậm chí Ngài còn không thể giải cứu bản thân, làm sao cứu rỗi được bạn và tôi. Trong “Bí truyện” viết Tsangyang Gyatso lưu lạc dân gian, trải qua đủ loại cảnh ngộ lưu lạc cùng khốn, cũng sắp xếp cho Ngài vô số truyền kỳ siêu việt khác thường. Kiếp sống lưu lạc đã trở thành thử thách của cao xanh đối với Ngài, trong hành trình gian nan này, Ngài trước sau không quên tu luyện Phật pháp, không quên giúp đời cứu người.
Chúng ta dường như nhìn thấy một Tsangyang Gyatso hoàn toàn mới, Ngài sớm đã thoát thai hoán cốt, tựa một đóa sen, khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống, Ngài cũng tìm được quả cuối cùng cho mình. Duy có nếm hết khói lửa nhân gian, mới hiểu rõ gió sương tình đời, mới biết chúng sinh cần gì, biết ruốt cuộc phải làm thế nào, họ mới có thể hưởng hạnh phúc chân chính. Phiêu bạt ở thế gian, Tsangyang Gyatso vừa đi, vừa nghỉ, vừa nhặt nhạnh, cũng vừa đánh mất. Số mệnh đột nhiên biến đổi, khiến ngài từ trong chìm nổi dần dần học được bình tĩnh, từ đó đã có lòng dạ rộng rãi như Phật, đã có vẻ ung dung và điềm đạm của Phật.
Năm 1715, Tsangyang Gyatso ba mươi ba tuổi lần nữa bí mật trở về Lhasa, rốt cuộc có thứ gì mà Ngài không buông xuống được? Tòa thành này đã chẳng còn non sông thuộc về Ngài, chẳng còn cô gái Ngài yêu thương, nhưng Ngài trước sau vẫn nhung nhớ không quên mảnh đất này. Còn người đã thay thế địa vị Phật sống của Ngài sống trong cung Potala kia, chẳng có chút dây mơ rễ má với Ngài. Đạt Lai thứ 6 Yeshey Gyatso[2], một cái tên xa lạ, chẳng qua là con rối Lha-bzang Khan tìm đến, vai trò giữa họ cũng như Đệ Ba Sangye Gyatso và Tsangyang Gyatso năm xưa. Càng buồn cười là, Yeshey Gyasto đã là Đạt Lai thứ 6, thế thì Yeshey cũng chính là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5 chăng? So với Tsangyang Gyatso, Yeshey mới là một Đạt Lai giả hoàn toàn.
[2] Yeshey Gyatso (Y Hi Gia Mục Thố): Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 không chính thức do Lha-bzang Khan lập nên vào năm 1707.
Lại ngắm thành Lhasa, nghe nói năm xưa khi Ngài rời đi, nhiều cô gái thầm yêu trộm nhớ Ngài đã sơn phòng mình thành màu vàng, giờ đây những phòng ốc ấy lại được tô trát một màu sơn mới. Không ai si ngốc chờ đợi một tình cảm vô vọng, không ai sẽ tưởng nhớ cả đời một người chẳng quen biết mình. Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso chẳng qua chỉ là một truyền kỳ thất lạc của thành Lhasa, điều nên quên cuối cùng vẫn phải quên. Duy có tình ca của Ngài vẫn như khói lửa bảng lảng, quanh quẩn trên bầu trời của thành Lhasa. Nếu nói còn có điều gì đáng để người hoài niệm, có lẽ cũng chỉ còn lại mấy bài thơ tình ấy.
Phiêu bạt chân trời gần mười năm, Tsangyang Gyatso cảm thấy mình đã xem khắp tình đời, cũng cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Ngài hy vọng tìm một nơi thích hợp để dừng chân, tịnh tâm ngồi thiền, đồng thời bắt đầu xây dựng xứ Phật lý tưởng của Ngài, truyền dương Phật pháp tinh thâm, phổ độ chúng sinh. Quá trình rong ruổi, xác thực đã cho Tsangyang Gyatso sự từng trải và rèn luyện trước đó chưa từng có. Ngài thâm nhập hồng trần, lĩnh ngộ cảnh giới bồ đề, hiểu được đời người duyên khởi duyên diệt không thể cưỡng cầu. Do đó mới vứt bỏ tình yêu, không cầm bút viết bài thơ khiến bản thân đau lòng, khiến người xem rơi lệ nữa.
Mãi đến một hôm, khi Tsangyang Gyatso dẫn mười sáu nhà sư của tu viện Mulu Lhasa từ Lhasa qua Thanh Hải đến Alxa, Ngài bị vùng đất rộng lớn mà yên bình này thu hút sâu sắc. Gặp gỡ giữa người và người là do duyên phận, gặp gỡ giữa người và phong cảnh cũng là do duyên phận, Tsangyang Gyatso lần đầu tiên đến Alxa, liền hiểu rõ duyên xưa của mình với nơi đây rất sâu đậm. Chốn này sắc núi tươi đẹp, thảo nguyên bao la, mây lành quấn quýt, khiến tâm linh Ngài tìm được một chốn về bình yên.
Alxa nằm ở đầu cực Tây khu tự trị Nội Mông Cổ, cách xa Lhasa, sự tranh đấu thế lực, loại trừ lẫn nhau của Tây Tạng không liên quan đến nơi này. Chính trị của Alxa ổn định, phong tục dân gian chất phác, lãnh thổ rộng lớn, giống như một vùng thế ngoại đào nguyên cách xa phân tranh. Vương gia A Bảo, người thống trị cao nhất đời thứ hai của miền đất này có chiến công lớn lao, được Khang Hy chọn làm ngạch phò[3], rất được nhà vua sủng hạnh, càng có thể khẳng định nơi này bình yên hơn những nơi khác. Hơn nữa mấy năm nay, Lha-Bzang Khan tuy đã chiến thắng Đệ Ba Sangye Gyatso, đuổi được Tsangyang Gyatso đi, nhưng Đạt Lai thứ 6 Yeshey Gyatso do y lập lên trước giờ không được tín đồ Tây Tạng khẳng định. Lha-bzang Khan đã đánh mất lòng người, bị các bộ lạc liên kết đối kháng, y không rảnh rỗi để ý đến khu vực Alxa. Do đó, Tsangyang Gyatso ở đây là an toàn nhất, không cần lo lắng và e sợ gì cả, Ngài có thể an cư ở đây, hoằng dương Phật pháp, mưu cầu hạnh phúc cho chúng sinh.
[3] Thời nhà Thanh, chồng của công chúa gọi là “ngạch phò”, tương đương với “phò mã” các thời trước.
Tsangyang Gyatso ba mươi tư tuổi cuối cùng đã kết thúc hành trình gió mưa mười năm của Ngài, dừng chân ở vùng đất tươi đẹp Alxa, và lưu lại đây suốt ba mươi năm. Tuy trong khoảng thời gian đó cũng có nhiều lần rời đi, nhưng cuối cùng vẫn trở về chốn này, Alxa đã trở thành quê hương kiếp sau của Tsangyang Gyatso. Monyu và Lhasa đều đã là kiếp trước của Ngài. Ngài lưu luyến mảnh đất này, là vì Ngài từ đầu đến cuối đều hướng đến hòa bình và yên ổn, mà Alxa đã cho Ngài một cảm giác có thể yên thân gửi phận. Cuối cùng Tsangyang Gyatso tọa hóa và được chôn cất ở nơi này, đến nay ở Alxa vẫn lưu truyền thánh tích và công đức về Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso.
Lần đầu đến Alxa, Tsangyang Gyatso dừng chân ở nhà Banzier Zhabu[4] quý tộc Alxa. Banzier Zhabu chính là cha của Ngawang Lhundrup Daji, tình duyên thầy trò giữa Tsangyang Gyatso và Ngawang Lhundrup Daji chính là kết nên ở đây. Lúc đó Ngawang Lhundrup Daji mới hai tuổi, từ nhỏ theo Tsangyang Gyatso xuất gia làm sư, dốc lòng học tập kinh Phật, sau đó đến Tây Tạng chuyên tu, trình độ cao thâm. Về sau lại được Tsangyang Gyatso xác định là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye Gyatso, chỗ huyền diệu trong đó, nhiều người không thể lý giải.
[4] Ban Tử Nhĩ Trát Bố.
Chuyện trên đời luôn không tách rời nhân quả luân hồi. Lúc xưa Đệ Ba Sangye Gyatso gần như nắm giữ cuộc đời hai mươi lăm năm của Tsangyang Gyatso, nhưng không lường trước được Ngawang Lhundrup Daji, linh đồng chuyển thế của y về sau sẽ trở thành đệ tử thủ tọa của Tsangyang Gyatso. Duyên phận đan xen phức tạp như thế, rốt cuộc nên xem là nghiệt duyên hay là thiện duyên? Cũng chính Ngawang Lhundrup Daji, vị cao tăng đầu tiên người Alxa Mông Cổ này, vì ân sư Tsangyang Gyatso của mình mà viết nên quyển “Tsangyang Gyatso bí truyện”, chỉ dẫn phương hướng cho những người tìm kiếm Tsangyang Gyatso trong màn sương dày đặc. Nhưng sách của ông chứa đựng quá nhiều điều thần kỳ, đã cho người đọc ảo tưởng vô tận, nhiều câu chuyện khiến người khó phân thật giả.
Dòng sông lịch sử dài mênh mông không bờ bến, sâu không thể dò, trừ phi chính mình là người đích thân trải qua, nếu không chẳng ai có thể kể lại chính xác cuộc đời của ai. Tsangyang Gyatso thực sự từng tồn tại trong lịch sử, Ngawang Lhundrup Daji cũng vậy, nhưng trong lịch sử lại ghi chép Tsangyang Gyatso hai mươi lăm tuổi đã qua đời. Nếu Ngài không chết, sư phụ của Ngawang Lhundrup Daji thật sự là Tsangyang Gyatso ư? Nếu Ngài quả thật chết bên hồ Thanh Hải, thế thì sư phụ của Ngawang Lhundrup Daji lại là người nào? Chẳng lẽ Ngawang Lhundrup Daji vì viết một quyển “Bí truyện” mà hư cấu sư phụ của mình thành Tsangyang Gyatso sao?
Chuyện đời mênh mang, còn chúng ta từ khi sinh ra đã mang một câu đố, đi lại trong cõi mênh mang đó. Biết bao truyền kỳ phong nhã hào hoa đều tan thành mây khói, biết bao vua chúa, đại thần văn võ đều biến mất không còn tăm tích. Mỗi một ngọn núi xanh, mỗi một dòng sông chảy, đều có câu chuyện không thể nói thành lời; mỗi một ngọn cỏ gốc cây, mỗi một hòn đá đều có câu đố không thể giải đáp. Chúng ta còn có thể dựa vào những vết tích vụn vặt năm tháng để lại, tìm được những gì? Nói cách khác, non sông không ngừng dời đổi này còn có thể lưu lại những gì cho chúng ta?
Chương 49: Chốn về
Mỗi người đều khát vọng đời này có thể tìm được một nơi chốn để linh hồn nghỉ ngơi, nuôi dưỡng tình cảm, yên thân gửi phận ở đó. Có lẽ nơi đây chẳng phải là quê hương, không nhìn thấy thấy phong cảnh thiên nhiên thuần phác thuở nhỏ, nhưng có khi còn hơn cả quê hương.
Mỗi người đều khát vọng đời này có thể tìm được một nơi chốn để linh hồn nghỉ ngơi, nuôi dưỡng tình cảm, yên thân gửi phận ở đó. Có lẽ nơi đây chẳng phải là quê hương, không nhìn thấy phong cảnh thiên nhiên thuần phác thuở nhỏ, nhưng có khi còn hơn cả quê hương. Có thể thu nhận một lữ khách chân trời là đủ để thấy nó có lòng dạ rộng rãi khoan hậu. Chúng ta đều là người mệt mỏi với số mệnh bôn ba trên thế gian này, vắng lạnh rong ruổi nơi đường ngang lối dọc, không biết cuối cùng rễ mọc ở chốn nào, lại sẽ quay về chốn nào.
Tsangyang Gyatso trải qua biển biếc nương dâu, đời người biến đổi, nhiều năm trôi dạt đã khiến Ngài chán ngán. Mãi đến khi gặp gỡ Alxa Nội Mông Cổ, một vùng đất có thảo nguyên, qua bích và hoang mạc. Đối với nhiều người, mảnh đất này quá đỗi bình thường, chẳng có bao nhiêu phong cảnh đẹp đẽ. Nhưng Tsangyang Gyatso lại có tình cảm vừa gặp đã xiêu lòng đối với nơi này, vì Alxa đã cho Ngài cảm giác an toàn, phong tục dân gian chất phác ở đây khiến Ngài có một cảm giác mơ về quê cũ. Phiêu bạt hồng trần mười năm, Tsangyang Gyatso không phải chỉ đơn thuần thưởng thức phong thổ nhân tình các nơi, Ngài đang lưu vong, bị bức bách bởi thế lực của Lha-bzang Khan, Tsangyang Gyatso sống những ngày trốn chui trốn nhủi. Do đó mười năm này nếm đủ gian nan, tuy cứu rỗi được nhiều dân chúng, nhưng bản thân chưa từng được yên ổn thực sự.
Alxa từ đó đã là quê hương thứ hai của Tsangyang Gyatso, tên tuổi Ngài đã từng khiến gió mây xao động ở thành Lhasa, người dân Tây Tạng ngày đêm truyền xướng tình ca của Ngài. Còn ở Alxa, mọi người truyền tụng đủ mọi sự tích của vị thần bảo hộ thảo nguyên này, các phiên bản mới không ngừng được sinh ra. Trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, đã ghi chép nhiều thần tích linh dị của Tsangyang Gyatso. Dường như Ngài thật sự là một vị Phật sống rơi xuống trần gian, có thần thông và pháp lực vô tận, mà tất cả sứ mệnh của Ngài, đều là vì hoằng dương Phật pháp, tạo phúc sinh linh, phổ độ chúng sinh. Khiến mọi người tin tưởng, ở thảo nguyên Alxa thật sự có một nhân vật thần kỳ như vậy, một vị Phật sống từ bi như vậy.
Có lúc rất khó tin, chính vì lần chạy trốn ở hồ Thanh Hải, khiến Tsangyang Gyatso sau khi nếm đủ trăm vị đã triệt để biến thành một người khác chăng? Một vị Phật không còn phong hoa tuyết nguyệt viết thơ tình, mà tâm niệm chúng sinh? Từng ngồi trên ngai Phật chót vót, chỉ muốn lưu lạc chân trời, vì một tình yêu, có thể không cần những tín đồ phủ phục dưới chân; giờ đây lưu vong ở dân gian, lại chỉ nghĩ đến trăm họ, chỉ muốn vì họ mở rộng cánh cửa trong lòng, miễn đi luân hồi bể khổ. Có lẽ chặng đường sinh mệnh thật sự sẽ triệt để thay đổi một người, người quen thuộc sẽ biến thành xa lạ; người ác độc sẽ biến thành lương thiện; người ích kỷ sẽ biến thành vô tư.
Sống, chẳng qua là thời gian một đóa hoa nở; chết, cũng chẳng qua là khoảnh khắc một phiến lá rụng. Có những người bằng lòng nghĩ rằng Tsangyang Gyatso như một đóa hoa rụng rực rỡ chết đi, kết thúc truyền kỳ một đời của Ngài ở hồ Thanh Hải. Có những người lại muốn nghĩ rằng Ngài giống như cỏ cây bền bỉ mà sống, phiêu bạt ở nhân thế, vì niềm tin Thiền Phật của Ngài. Cỏ cây nhân gian, vội vã đã là một đời, nhưng chúng ta luôn hy vọng hoàn mỹ, tình duyên dang dở có thể kết liễu, tâm nguyện lâu năm chưa hoàn thành có thể tròn vẹn. Một quyển “Bí truyện” đã giải mộng cho biết bao người, lại đập tan sự hoàn mỹ ban sơ của biết bao người?
Từ khi Tsangyang Gyatso đến Alxa, nhiều sự tích kỳ dị xảy ra ở đây đã được mọi người tranh nhau truyền tụng. Còn vương gia A Bảo, người thống trị cao nhất của Alxa, cũng đã nghe nhiều truyền kỳ về Ngài. Vương gia A Bảo liền lệnh cho trưởng giả có thân phận của Alxa đi mời Ngài đến, và đích thân dẫn quan viên cùng tín đồ nghênh đón ở vương cung, long trọng tiếp đãi vị thánh tăng này. Tsangyang Gyatso chẳng khi nào tiết lộ thân phận của mình với bất cứ ai, những năm nay Ngài đi lại giữa dân gian, đóng nhiều vai trò khác nhau. Ở Alxa, Ngài chỉ là một nhà sư có trình độ Phật học cao thâm, không ai biết Ngài từ nơi nào đến, cũng không ai xét nét quá khứ của Ngài.
Vương gia A Bảo là một người độ lượng cởi mở, cũng có tấm lòng thành kính đối với Phật giáo Tạng truyền, ông cùng Đạt Lai có ngọn nguồn rất sâu. Vì mấy năm sau, ông sẽ nhận ủy nhiệm của triều Thanh, đến Litang thuộc khu Tạng Tây Khang, hộ tống Kelzang Gyatso[1] người Litang đến Lhasa cử hành điển lễ tọa sàng, vị Kelzang Gyatso này chính là linh đồng chuyển thế của Đại Lai thứ 6 mà dân gian nhận định, tức Đại Lai Lạt Ma thứ 7.
[1] Kelzang Gyatso (Cách Tang Gia Mục Thố, 1708-1757): Đạt Lai Lạt Ma thứ 7
Vương gia A Bảo cùng Tsangyang Gyatso gặp nhau ở Alxa, cũng là duyên phận của ông với Phật. Họ vừa gặp như đã quen biết, chuyện trò rất vui vẻ. Vương gia A Bảo bị thu hút bởi khí độ phi phàm của Tsangyang Gyatso, cũng bị thuyết phục bởi vẻ từ bi và ung dung toát ra giữa vầng trán của Ngài, bèn khẩn khoản mời Ngài đảm nhiệm chức Thượng Sư của Alxa, suốt đời lưu trú ở đây, tạo phúc chúng sinh. Còn Tsangyang Gyatso sớm đã có cảm tình với mảnh đất này, Ngài đã nhận định Alxa là chốn về kiếp này của Ngài. Do đó Ngài đã nhận lời mời của vương gia A Bảo, kết nên Phật duyên với nơi đây, vì chúng sinh nơi đây mưu cầu phúc báo.
Năm 1717, Tsangyang Gyatso ba mươi lăm tuổi, nhờ sự quan tâm chiếu cố của vương gia A Bảo, danh tiếng càng thêm truyền xa ở Alxa. Ngài cũng dốc hết pháp lực của mình, bảo vệ tất cả sinh linh của mảnh đất này. Năm đó, Lha-bzang Khan bị quân đội Dzungar giết chết, Yeshy Gyatso Đạt Lai thứ 6 do Lha-bzang Khan lập bị nhốt trong tu viện núi Dược Vương[2], vị Đạt Lai giả vô tội này lặng lẽ chết đi bảy năm sau đó. Dân gian Tây Tạng vẫn bàn luận câu đố về sự mất tích của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, đồng thời sôi nổi hưởng ứng Kelzang Gyatso, linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 làm Đạt Lai mới.
[2] Núi Dược Vương (Chokpori): một ngọn núi ở Lhasa, được xem là núi thiêng của Kim Cương Thủ Bồ Tát.
Những năm nay, Tsangyang Gyatso hóa danh làm Ngawang Chödrag Gyatso[3], du ngoạn các nơi như Ấn Độ, Tây Tạng, Tứ Xuyên. Lúc đó vương gia A Bảo hơi hoài nghi về thân phận của vị thánh tăng hóa danh làm Ngawang Chödrag Gyatso này. Ông thậm chí cảm thấy Ngài chính là Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso đã mất tích ở hồ Thanh Hải. Nhưng Tsangyang Gyatso trước sau là khâm phạm của triều đình Đại Thanh, do đó không tiện nói toạc ra, chỉ tin thờ Ngài làm Thượng Sư của Alxa, từ đó đối với Ngài càng thêm kính yêu và quan tâm.
[3] A Vượng Khúc Trát Gia Mục Thố.
Còn vương phi của vương gia A Bảo - công chúa Đạo Cách Hân, thấy vương gia A Bảo và trăm họ ở Alxa tin thờ Tsangyang Gyatso như thế, thì hơi không tán thành. Vương phi A Bảo là vị Hòa Thạc Cách Cách đầu tiên của vương triều Mãn Thanh được gả đến Alxa, từ nhỏ rất được ân sủng, quen được nuông chiều. Ở kinh thành bà cũng từng nghe không ít câu chuyện truyền kỳ về cao nhân giang hồ, do đó không hề để ý nhà sư vân du bốn phương mới đến này. Sau đó qua mấy lần tiếp xúc, bà cũng bị khí độ và pháp lực siêu phàm của Tsangyang Gyatso thuyết phục sâu sắc, thậm chí tự cho mình là đệ tử thành kính, quyết ý trọn đời đi theo vị Thượng Sư truyền kỳ này.
Nghe nói vương phi A Bảo còn dùng tóc của mình làm một búi tóc đội đầu cho Tsangyang Gyatso, khảm lên các loại châu báu, tinh xảo cực kỳ. Đến nay ở tu viện Guangzong[4] của Nội Mông Cổ vẫn bảo toàn hoàn hảo búi tóc do vương phi A Bảo dùng tóc kết thành và một bộ phận y phục trang sức, những tín đồ thành kính mượn đó để tưởng nhớ, năm xưa Tsangyang Gyatso thật sự lưu lại dấu chân ở Alxa, đồng thời kết nên duyên xưa với vương gia và vương phi A Bảo. Trong di vật của Tsangyang Gyatso, người đời sau còn phát hiện tóc của phụ nữ, càng chứng thực thói phong lưu đa tình của vị Phật sống trẻ tuổi này. Truyền thuyết đẹp buồn, ở Tây Tạng, ở thảo nguyên Alxa, vì có những truyền thuyết này, tỏ ra càng thêm thần bí, khiến người hướng đến.
[4] Tu viện Guangzong (Quảng Tông): còn gọi là Nam Tự, là tu viện lớn nhất của Alxa, Nội Mông Cổ.
Trung thu năm đó, nhân dịp vương phi A Bảo - công chúa Đạo Cách Hân về kinh triều kiến, bèn mời Tsangyang Gyatso cùng đi. Thế là Tsangyang Gyatso dẫn theo mấy đệ tử, theo công chúa Đạo Cách Hân vào kinh nửa năm, ngụ tại vương phủ Alxa ở Thập Sát Hải[5]. Thăm Hoàng Tự, Hoàng Cung, xem Phật lớn làm bằng gỗ đàn hương do Yeshy Gyatso dâng ở cung Ung Hòa[6]. Vương phi A Bảo luôn chăm sóc chu đáo, rất mực cung kính đối với Thượng Sư, khiến kẻ trên người dưới trong vương phủ đều vô cùng tôn sùng nhà sư thân phận đặc thù này. Tsangyang Gyatso là Phật sống, trên người Ngài nhất định có một khí chất không giống với người thường, diện mạo tuấn tú, tính Phật từ bi của Ngài khiến người không thể kháng cự.
[5] Thập Sát Hải: là ba hồ Tiền Hải, Hậu Hải và Tây Hải trong nội thành Bắc Kinh. Vì xung quanh có mười chùa miếu nên gọi là Thập Sát Hải.
[6] Cung Ung Hòa: nằm ở khu Đông Thành, Bắc Kinh, là tự viện Phật giáo Tạng truyền lớn nhất trên đất Hán.
Ở cửa Đức Thắng, Tsangyang Gyatso tận mắt nhìn thấy tình cảnh con cái và người nhà của Đệ Ba Sangye Gyatso bị áp giải vào kinh. Đệ Ba Sangye Gyatso từng gió mây bất tận, nắm giữ cục diện chính trị Tây Tạng mấy mươi năm, sau khi đầu rơi xuống đất, hào hoa phú quý của hôm qua đều chìm vào khói bụi. Người chết đã đành, người sống tội gì, vậy mà họ vẫn phải chịu sự trừng phạt khắc nghiệt vì lỗi lầm của quá khứ. Nhưng họ thật sự sai sao? Thắng làm vua, thua làm giặc, định số ngàn xưa chẳng ai có thể thay đổi. Ngắm từng khuôn mặt dính đầy gió bụi, nhớ đến những chuyện tiền nhân quá vãng, Tsangyang Gyatso cảm khái muôn vàn.
Mười năm gió mưa không tự chủ, hôm nay Ngài đất khách gặp người quen, lại là tình cảnh thế này. Bất kể Đệ Ba Sangye Gyatso từng gây tổn tương thế nào đối với Tsangyang Gyatso, nhưng chung quy từ đầu đến cuối, y là người thân mật nhất trong cung Potala của Ngài. Cũng chỉ có Sangye Gyatso thật sự từng bảo vệ Ngài, đồng thời từng dạy Ngài kinh điển Thiền học, khiến Ngài được lợi ích cả đời. Giờ đây Tsangyang Gyatso nhìn người nhà của Sangye Gyatso luân lạc đến đây mà lại bất lực, ngoài than thở, Ngài còn có thể làm gì?
Ai nói Phật sống sinh ra đã có sức mạnh của thần, có thể hô mây gọi gió, có thể độ hóa chúng sinh? Trong nhân gian mênh mang, có lúc Phật cũng không ngăn nổi một chút sóng gió, vì định luật nhân quả, ý trời khó trái. Khi xót xa bứt rứt, Phật cũng sẽ rơi lệ.
Chương 50: Chuyển thế
Chúng ta đều là khách qua đường giữa chốn hồng trần, cũng từng hiểu biết nhân quả, lại không thể lĩnh ngộ huyền cơ trong đó. Đời này nếu chịu hết khổ nạn, xem như là tiêu trừ nghiệt trái kiếp trước, đời này nếu suôn sẻ bình thản, chỉ xem như là phúc báo có được.
Đều nói một người có linh tính, có thể sẽ trong mơ, hoặc trong một số hình ảnh, biết được kiếp trước và kiếp sau của mình. Bản thân giấc mơ chính là một sự hư ảo, nhưng nhiều người lại bằng lòng chìm đắm trong mơ, mượn tưởng tượng mỹ lệ tuyệt vời, để an ủi buồn khổ trong hiện thực. “Lâm Xuyên tứ mộng[1]” của Thang Hiển Tổ đến nay vẫn được mọi người si mê, là vì tất cả câu chuyện đều xảy ra trong mơ. Trong mơ có nhiều điều kỳ diệu, khó nói nên lời. Trong mơ, có thể không lo cảnh xuân tươi đẹp phải chăng như mây khói thoảng qua, không quản dòng chảy thời gian phải chăng như nước xuân cuồn cuộn một đi không trở lại.
[1] Lâm Xuyên tứ mộng: bốn vở kịch do Thang Hiển Tổ sáng tác, đều liên quan đến chữ “mộng”. Gồm Tứ Tiêu Ký (Tứ Thoa Ký), Mẫu Đơn Đình, Nam Kha Ký, Hàm Đan Ký.
Chúng ta đều là khách qua đường giữa chốn hồng trần, cũng từng hiểu biết nhân quả, lại không thể lĩnh ngộ huyền cơ trong đó. Đời này nếu chịu hết khổ nạn, xem như là tiêu trừ nghiệt trái kiếp trước; đời này nếu suôn sẻ bình thản, chỉ xem như là phúc báo có được. Không ai có thể lật xem kiếp trước của mình, cũng không ai có thể biết được kiếp sau của mình, tất cả suy đoán, đều như đúng như sai.
Do đó đối với chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma các đời ở Tây Tạng, sẽ sinh ra lòng hiếu kỳ, luôn không nhịn được hỏi: Rốt cuộc làm thế nào để tìm được linh đồng chuyển thế? Chẳng lẽ người chết rồi thật sự sẽ có chuyển thế? Cứ xem là có chuyển thế, lẽ nào quá trình phức tạp này sẽ không xuất hiện sai sót? Về việc làm sao tìm kiếm linh đồng chuyển thế và xác nhận linh đồng chuyển thế, trước đây đã có trình bày, nhưng vẫn có quá nhiều huyền cơ không thể giải thích, khiến người nghĩ mãi không hiểu. Lời tiên đoán đáng tin hay không? Cao tăng bói quẻ đáng tin hay không? Nước hồ thánh đáng tin hay không? Còn những hiện tượng thiên văn thần kỳ kia có đáng tin hay không? Nếu nhiều thứ trên thế gian không đáng tin, vậy thì sao vẫn có nhiều tín đồ phủ phục dưới chân Phật như thế để cầu nguyện độ hóa và siêu thoát?
Muốn nhắn với hạc trắng,
Mượn đôi cánh để bay.
Chẳng xa, đến Litang,
Rồi sẽ quay lại ngay.
Bài thơ này năm xưa Tsangyang Gyatso viết trên đường rời Lhasa bị giải về kinh. Ban đầu nhiều người không hiểu thâm ý của nó, cho rằng Tsangyang Gyatso lưu lại duyên cũ gì đó ở Litang, do đó nguyện mượn đôi cánh của hạc tiên, bay đến nơi đó, tìm kiếm người Ngài muốn tìm, kết thúc chuyện Ngài muốn kết thúc. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso thần bí mất tích ở hồ Thanh Hải, không biết đi đâu. Thế là, các sư của tu viện Ganden[2], tu viện Drepung và tu viện Sera, dựa vào bài thơ này của Ngài, lĩnh ngộ ra điều ảo diệu trong đó, ở một địa phương gọi là Litang, tìm được Kelzang Gyatso, tôn làm Đạt Lat Lạt Ma thứ 7.
[2] Tu viện Ganden (Cam Đan): cách Lhasa khoảng 50km, do Đại sư Tsongkhapa xây năm 1409, cùng với Drepung và Sera được gọi là “ba tu viện lớn của Lhasa”.
Năm 1708, ngày 19 tháng 7 năm Chuột Đất của Rabqung[3] thứ 12 lịch Tạng, Kelzang Gyatso sinh ra ở Duokang mạn dưới Litang. Về một số truyền kỳ lúc Ngài chào đời, có thể lúc đó đã xuất hiện thiên tượng khác lạ nào đó nhưng không ai còn ghi nhớ. Nhưng là một linh đồng chuyển thế, nhất định có điểm không như người thường. Khi Kelzang Gyatso chào đời, Tsangyang Gyatso đã mất tích ở hồ Thanh Hải gần hai năm, còn Yeshey Gyatso do Lha-bzang Khan nâng đỡ cũng đã tọa sàng ở cung Potala một năm. Vị Đạt Lai thứ 6 Yeshey Gyatso diễn lại vai trò Tsangyang Gyatso năm xưa, làm con cờ của Lha-bzang Khan, mặc cho y sắp xếp.
[3] Rabaqung: chu kỳ 60 năm của lịch Tạng.
Yeshy Gyatso dù được vua Khang Hy của Đại Thanh thừa nhận, ban cho ấn vàng, hạ chiếu sắc phong làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, nhưng chưa từng được sư sãi công nhận, cũng không được tín đồ Tây Tạng thật sự kính ngưỡng. Còn Lha-bzang Khan một mình nắm lấy quyền lực chính trị cũng chưa hề thật sự có được lòng dân, cao tăng của tu viện Ganden, tu viện Drepung và tu viện Sera hết sức bất mãn đối với việc Lha-bzang Khan tự tiện quyết định phế lập Đạt Lai Lạt Ma. Các sư sãi còn lại cũng chưa hề ngừng tìm kiếm linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, sau đó trong thơ tình của Tsangyang Gyatso để lại, họ tìm được phương hướng của Phật sống, chính là nơi hạc tiên phải bay đến - Litang.
Cao tăng của ba tu viện lớn tin chắc thơ tình của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso ẩn giấu huyền cơ, là để ngầm chỉ cho họ nơi tồn tại của linh đồng chuyển thế của Ngài. Thế là họ đã tổ chức nhiều sư sãi đến Litang, và tìm được đứa trẻ tên là Kelzang Gyatso, lại thông qua nghiệm chứng nhiều phương diện, xác định đứa bé đó chính là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6. Họ dâng thư cho vua Đại Thanh, ra sức yêu cầu phế bỏ Đạt Lai giả do Lha-bzang Khan lập, công nhận lại Kelzang Gyatso là thân phận linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6.
Lúc đó cục thế Tây Tạng vẫn gió mưa rung chuyển, tuy Lha-bzang Khan đã chiến thắng Đệ Ba Sangye Gyatso, đuổi Phật sống Tsangyang Gyatso đi, nhưng cách làm của y không được mọi người tán thành. Nhiều bộ lạc như hổ đói chờ mồi lăm le nhòm ngó y, vị trí thủ lĩnh Tây Tạng của y cũng lung lay muốn đổ. Do mấy lần biến động, vua Khang Hy cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ, nhà vua không phế bỏ Yeshey Gyatso, giữ thái độ trung lập trước thân phận của linh đồng chuyển thế Kelzang Gyatso. Nhưng nhà vua có lòng quan tâm chăm sóc đặc biệt đối với đứa trẻ này, chuyển bé đến ở trong phạm vi thế lực của bộ lạc Khoshut tại Thanh Hải, và đưa bé đến tu viện Kumbum[4] cạo đầu đi tu học kinh.
[4] Tu viện Kumbum (Tháp Nhĩ Tự): cách thành phố Tây Ninh thủ phủ tỉnh Thanh Hải 25km, xây năm 1560, là nơi sinh của Đại sư Tsongkhapa người sáng lập phái Gelug.
Mãi đến năm 1717, Lha-bzang Khan bị quân đội Dzungar giết, Yeshey Gyatso bị giam cầm, thân phận Phật sống của Yeshey cũng tự nhiên bị tín đồ Tây Tạng lật đổ. Năm 1719, vua Đại Thanh bình định xong phản loạn Dzungar, mới chính thức thừa nhận thân phận linh đồng chuyển thế của Kelzang Gyatso. Hoàng tử thứ 14 của Khang Hy và mấy vị đại thần cùng ba ngàn binh sĩ, từ Tây Ninh đến tu viện Kumbum, bố trí đại quân Hán Mông, làm tốt mọi việc chuẩn bị để nghênh đón linh đồng chuyển thế. Năm sau, hoàng tử mang ấn vàng và sách vàng của Khang Hy ban cho Đạt Lai Lạt Ma đến, đồng thời cử hành lễ lớn tọa sàng long trọng cho Kelzang Gyatso ở cung Potala.
Kelzang Gyatso tuy được quyết định là linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, và được sư sãi của phái Gelug công nhận Ngài là Đạt Lai thứ 7, nhưng chính phủ triều Thanh lại kiên trì Kelzang Gyasto là Đạt Lai thứ 6, cho rằng Kelzang Gyatso là tiếp nhận thay thế chứ không phải kế thừa pháp vị của Đạt Lai thứ 6 đã bị phết truất, không thể công nhận làm Đạt Lai thứ 7. Sau đó vì nhân dân Tây Tạng trước cho rằng Kelzang Gyatso là Đạt Lai thứ 7, mãi đến năm Càn Long[5] thứ 48, khi vua Càn Long phong Jamphel Gyatso[6] làm Đạt Lai thứ 8, có nghĩa ngầm thừa nhận Kelzang Gyatso là Đạt Lai thứ 7, còn Tsangyang Gyatso cũng thuận lý thành chương trở thành Đạt Lai thứ 6.
[5] Càn Long (1711-1799): Hoàng đế thứ sáu của nhà Thanh, tên húy Hoằng Lịch, miếu hiệu Thanh Cao Tông. Thời kỳ trị vì 1736-1795, là thời cực thịnh về kinh tế và quân sự của nhà Thanh.
[6] Jamphel Gyasto (Cường Bạch Gia Mục Thố, 1758-1804): Đạt Lai Lạt Ma thứ 8
Ngày Kelzang Gyatso cử hành điển lễ tọa sàng ở cung Potala, trăm ngàn tín đồ trong thành Lhasa phủ phục dưới chân Hồng Sơn, tụng niệm kinh Phật, dùng nghi thức thành kính nhất bày tỏ họ đi theo Đạt Lai Lạt Ma thứ 7, tuyên bố với núi xanh nguy nga và sông ngòi cuồn cuộn tín ngưỡng cả đời không đổi của họ. Điển lễ tọa sàng lần này chẳng hề thua kém phong quang khi Tsangyang Gyatso tọa sàng năm xưa. Lịch sử chẳng qua diễn lại từng màn hý kịch, thứ thay đổi chỉ là những vai diễn vội vã lướt qua, có một ngày, chúng ta đều sẽ biến mất không vướng bận, trở thành quá khứ, trở thành lịch sử.
Trên ấn vàng nhà Thanh ban cho Kelzang Gyasto có khắc: “Hoằng Pháp Giác Chúng Đệ Lục Thế Đạt Lai Lạt Ma Chi Ấn[7]”. Nếu Kelzang Gyasto là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, thế thì Ngài lẽ đương nhiên phải là Đạt Lai Lạt Ma thứ 7. Nếu Kelzang Gyatso không phải là linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, thế thì Ngài tồn tại với thân phận nào? Nếu năm xưa Tsangyang Gyatso thật sự bệnh chết ở hồ Thanh Hải, thế thì Kelzang Gyatso có lẽ thật sự là linh đồng chuyển thế trong thơ Ngài chỉ ra, nhưng nếu giống như “Bí truyện” kể, Ngài không chết đi, mà phiêu bạt giang hồ, sau cùng ẩn náu ở Alxa, thế thì từ đâu ra cách nói linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso?
[7] Ấn của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 hoằng dương Phật pháp giác ngộ chúng sinh.
Lịch sử đan xen phức tạp, huyền cơ trùng trùng, thực là quá đỗi lằng nhằng. Không ai có thể đưa ra một câu trả lời xác định về việc Tsangyang Gyatso đi đâu, làm gì, về lai lịch của Kelzang Gyatso. Bản thân lịch sử chính là một vũ đài kỳ quái sặc sỡ, biết bao người tồn tại không rõ ràng, lại ra đi không rõ ràng, trước giờ đều không thật sự nắm giữ cuộc đời của mình. Bản thân Kelzang Gyatso cũng không hiểu rõ, rốt cuộc lấy thân phận nào ngồi trên ngai Phật của cung Potala, ngồi suốt mấy mươi năm. Về câu đố thân phận của mình, Ngài không hỏi, cũng không cách gì hỏi được. Chỉ đành tin tưởng mình thật sự là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, tin tưởng mình là Phật sống theo lời tiên đoán trong thơ của Tsangyang Gyatso. Bởi vì, Litang là quê hương của Ngài.
Ngày 15 tháng 9 năm 1720, Kelzang Gyatso cử hành điển lễ tọa sàng ở cung Potala, tôn Ban Thiền thứ 5 Lobasang Yeshe làm thầy, thọ giới sa di. Sau đó vào tu viện Drepung học kinh. Năm 1727, Kelzang Gyatso hai mươi tuổi, lại thọ giới tỳ khưu từ Ban Thiền thứ 5. Sau khi tự mình chấp chính, Kelzang Gyatso dốc sức vào sự vụ tôn giáo, hoằng dương Phật pháp, tạo phúc chúng sinh. Ngài sống cả đời khiêm tốn tiết kiệm giản dị, rất được dân chúng Tây Tạng kính yêu.
Trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền Tây Tạng, đã xuất hiện ba vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Tất cả những chuyện này, duyên khởi từ Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, chính Ngài đã diễn dịch truyền kỳ, lại tiếp diễn truyền kỳ. Nhưng ba vị Đạt Lai này cũng chỉ là thanh y trên vũ đài cung Potala, bất lực đạo diễn màn kịch của người khác, nhưng nào đã được sở hữu bản thân chân thực? Tsangyang Gyatso dù vẫn được người đời sau ngược dòng hoài niệm, nhưng cả đời của Ngài rốt cuộc là một câu đố không thể giải đáp. Yeshey Gyatso càng đáng buồn hơn, ở trong cung Potala mười một năm, đến nay cả một sợi tóc của Ngài cũng không tìm được. Còn Kelzang Gyatso định sẵn là bình dị, có lẽ Ngài cũng chỉ là một vật thay thế, dùng nhục thân của Ngài để thay thế một vị trí hư không.
Trước những nghi hoặc không thể giải thích, chúng ta rốt cuộc nên tin điều gì, không nên tin điều gì? Có lẽ chúng ta nên giống như mây trắng gió mát, nhàn nhã tự tại, không phiền lo, quấy nhiễu. Giống như những người dân Tạng thành kính kia, tin tưởng sự tồn tại của Thần Phật, tin tưởng mỗi một áng mây trắng, mỗi một chú linh dương Tạng đều có linh tính không thể nói bằng lời. Như vậy sẽ không cần tìm kiếm lời giải cho câu đố hiểm hóc kia, không cần biết chân tướng của ba trăm năm trước. Cứ để câu đố mãi mãi là câu đố, để hôm qua mãi mãi qua đi, để câu chuyện mãi mãi chỉ là câu chuyện. Người hiền lành như bạn và tôi, chỉ ở một góc của trần thế, trầm tĩnh yên ổn, là tốt rồi.