Chúng ta thường chuyển từ một sàn nhảy náo nhiệt này sang một sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua một mình bạn, chẳng qua một mình tôi. Dưới quang âm sâu lắng, nói mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống một ly trà đậm nhạt nóng nguội.
Người sống trên đời rốt cuộc là vì điều gì? Những lúc hoang mang túng quẫn, chúng ta luôn kìm lòng chẳng đặng hỏi bản thân như thế. Nhàn du chốn nhân gian là vì sứ mệnh riêng tư của mỗi cá nhân, là vì một tín ngưỡng không thể nói ra, hay vẻn vẹn chỉ là một kiểu tồn tại giản đơn? Đời người mỗi bước đều là ván cờ, người bố trí bàn cờ rốt cuộc là ai, bạn và tôi đều không cách gì biết được. Chúng ta thường chuyển từ một sàn nhảy náo nhiệt này sang một sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua một mình bạn, chẳng qua một mình tôi. Dưới quang âm sâu lắng, nói mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống một ly trà đậm nhạt nóng nguội.
Nhân gian này, phong trần nhất, mênh mang nhất, cũng vô tình nhất, rõ ràng đã cho chúng ta góc khuất nương thân, lòng lại không chốn ở yên. Chúng ta vẫn một lòng tình nguyện trăn trở giữa cõi trần, non một chặng, nước một chặng, đeo hành trang tìm đến phương xa, vì mộng tưởng trong lòng. Chúng sinh vạn tướng, tâm tình khác nhau, tạo ngộ đời người khác nhau, nơi chốn hướng về cũng khác nhau. Có người si mê bờ nước Giang Nam[1], trăng lạnh hoa mai thanh tao, có người tham luyến gió cát đại mạc, đìu hiu sông Dịch[2] thê lương. Có người thích mơ một giấc mộng ẩm ướt dưới nếp nhà cũ, có người lại nguyện ý rời phố xa quê, đi tìm câu chuyện nhân quả chôn giấu trong hoang nguyên.
[1] Giang Nam: tên gọi trong văn hóa Trung Quốc chỉ vùng đất nằm về phía nam Trường Giang. Vùng đất Giang Nam thay đổi theo thời gian, hiện được cho là bao gồm thành phố Thượng Hải, phía nam của tỉnh Giang Tô và tỉnh An Huy, phía bắc của tỉnh Giang Tây và tỉnh Chiết Giang, khu vực quanh hồ Động Đình. Một số khu vực của tỉnh Phúc Kiến đôi khi cũng được tính là thuộc vùng Giang Nam.
[2] Sông Dịch: một con sông ở phía tây tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Kinh Kha đi hành thích vua Tần, Thái tử Đan nước Yên tiễn biệt tại đây.
Mỗi người đều có quê hương thuộc về mình, có quê hương từ nhỏ sinh ra và lớn lên, cũng có quê hương của tâm linh. Quê hương chân thực, có lẽ là non xanh nước biếc, cầu đá liễu rủ, nhà gỗ bình yên. Quê hương của nội tâm, có lẽ là bụi vàng đường cổ, bão tuyết cao nguyên, gió dài lồng lộng. Chúng ta đều là những người bình thường nhất, nhưng vì mộng tưởng khác thường trong lòng, lại cam nguyện làm một lữ khách phiêu bạt chân trời, phóng khoáng vẫy chào quê nhà, đi đánh thức nền văn hóa đã trầm mặc ngàn năm trên mảnh đất xa xưa mà thần bí ấy.
Tây Tạng, nơi ấy cách bầu trời rất gần, cách giấc mơ rất xa, những năm gần đây, vì mảnh đất thần diệu này, biết bao người đã dấn bước trên lộ trình dằng dặc dọc đường gió bụi. Chẳng mấy chốc, cao nguyên hoang vu mênh mông đã trở thành quê hương mà vô số kẻ lãng du hồn mơ lòng nhớ. Nhiều người đối với chân trời xa xăm này đều bội phần xa lạ, thậm chí chẳng biết máy bay, nhưng vẫn nhất mực tình sâu đem linh hồn tá túc tại đây. Chắc chắn là có thứ gì đó khiến chúng ta mê mẩn không rời, có lẽ là bí mật thần kỳ chôn giấu nơi đất Tạng, là kinh phướn phấp phới tỏ rõ luân hồi[3], là lời nguyền đến từ văn minh viễn cổ.
[3] Luân hồi (samsāra) chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn.
Có những người không nề hà muôn dặm rong ruổi đến đây, chỉ để múc một hũ nước thánh của hồ Thanh Hải[4], chỉ để ngắm một thoáng mặt trời lặn trên cung Potala[5], chỉ để bước trùng lên dấu chân công chúa Văn Thành[6] năm xưa, chỉ để ngâm nga một bài thơ của Tsangyang Gyatso, cũng để tận mắt nhìn thấy một lần mục dân lùa ngựa cừu từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác, tiếp nối câu chuyện này với câu chuyện khác. Hoặc là quan sát một lần thiên táng, xem chim điêu rỉa sạch thi thể, một thân xác chớp mắt đã biến mất, cả chiếc áo xanh cũng chẳng đem đi được. Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, kiếp này thành Phật, là vì siêu độ khổ nạn của chúng sinh.
[4] Hồ Thanh Hải hay hồ KokoNor là hồ lớn nhất Trung Quốc và là hồ nước mặn lớn thứ hai thế giới sau hồ Muối Lớn ở Mỹ. Hồ nằm ở độ cao 3.205m - 3.260m trên bồn địa của cao nguyên Tây Tạng, cách thành phố Tây Ninh, thủ phủ tỉnh Thanh Hải khoảng 100km về phía Tây.
[5] Cung Potala nằm ở thành phố Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc, đã là nơi ở của Đạt Lai Lạt Ma cho đến khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chạy sang Dharamsala, Ấn Độ vào năm 1959. Ngày nay, cung Potala là một viện bảo tàng, một địa điểm thu hút khách tham quan nổi tiếng, đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. “Potala” là dịch âm từ tiếng Phạn, có nghĩa là “thánh địa Phật giáo”.
[6] Công chúa Văn Thành (623-680): cháu gái vua Đường Thái Tông, hoàng hậu thứ hai của vua Thổ Phồn Songtsän Gampo, là một đệ tử Phật giáo, cùng với công chúa Nepal Bhrikuti Devi - hoàng hậu thứ nhất của Songtsän Gampo, được cho là những người đã đưa Phật giáo vào Tây Tạng.
Suốt dọc đường, nhìn thấy người Tạng áo quần lam lũ quỳ gối rạp mình đi về phía trước, trong ánh mắt chứa đầy kiên định không thể lung lay. Họ lựa chọn dùng phương thức thành kính này để đi hết hành trình xa xôi, vì niềm tin trong lòng, vì tìm kiếm kiếp trước trong mơ. Tất cả những ai đi qua bên họ đều sẽ cảm động đến đầm đìa nước mắt, cũng muốn vì họ gánh vác chút gì đó, nhưng lại bất lực biết bao. Nhiều người đến đều là để bái yết sinh mệnh, đến cung Potala, tiếp nhận lễ rửa tội thánh khiết nhất. Một mảng bầu trời xanh thẳm ấy, có chim ưng dang cánh chao liệng, mây trôi tản mác, với tay chạm được.
Chương 2: Tìm kiếm [2]
Theo đuổi một giấc mộng, có lẽ chỉ cần dăm ba năm, tìm kiếm một người, rốt cuộc phải mất thời gian bao lâu? Núi tuyết yên tịnh dựa sát vào nhau trên cao nguyên, hồ thánh hắt bóng trên những đỉnh núi trắng tinh. Ở nơi này, có cách tang[7] nở hoa, cỏ lác đung đưa trong gió; ở nơi này, tình yêu của chúng ta sao mà giản đơn, chỉ vì tình cờ gặp gỡ một đôi mắt linh dương Tạng. Năm tháng luân chuyển, vương triều đổi chủ, bao nhiêu gió mưa nghiệp bá đều âm thầm chôn vùi trong sông dài lịch sử, người và việc có thể khiến chúng ta ghi nhớ lác đác như sao buổi sớm. Mà mảnh đất này, vĩnh viễn không bị quấy nhiễu, biết bao người muốn vén tấm mạng che mặt thần bí dưới màn sương mỏng kia, lại phát giác hóa ra miền đất xem chừng cằn cỗi này lại màu mỡ như vậy. Mặc cho năm tháng vùi dập tuổi tác, sự đời sớm đã đổi thay hoàn toàn, một cỏ một cây, một bụi một cát ở đây đều không hề suy suyển.
[7] Cách tang: một loài hoa sinh trưởng trên cao nguyên, thuộc họ thúy cúc. “Cách tang” tiếng Tạng nghĩa là hạnh phúc, người Tạng xem đây là loài hoa thánh khiết tượng trưng cho tình yêu và may mắn.
Khói lửa ở đây rất thưa thớt, chúng ta đều từ nơi hồng trần sâu nhất đến đất Tạng, đặt xuống tất cả tôn quý và vinh hoa của trần thế, cũng mang đến nhiều bụi đất lẫn lộn và tâm sự ngổn ngang. Núi mây muôn dặm, trăng lạnh gió rét, dù nhiều người không thể thích ứng hoàn cảnh tự nhiên nơi này, nhưng đã chọn đến đây, đều dự định cùng sống chết với đồng hoang đất tuyết ở đây. Trên thực tế, chúng ta đều hiểu rõ, trèo đèo lội suối như vậy, sốt ruột đi gấp, là vì tìm kiếm một con người, một cái tên, một bài thơ tình. Chỉ là trên đời này có nhiều việc không cho phép bạn và tôi dễ dàng nói toạc ra, số mệnh có quá nhiều chân lý huyền diệu không thể tìm hiểu thấu đáo. Dường như vì những huyền cơ này, vạn vật mới có lý do để con người tìm đến ngọn nguồn.
Ở Tây Tạng có nhiều vị Đạt Lai Lạt Ma[8] chuyển thế như vậy, vì sao người chúng ta ghi nhớ cứ là Tsangyang Gyatso? Có lẽ những ai từng đến đây và chưa từng đến đây đều hiểu rõ, đó là vì Ngài là một vị tình tăng, một vị tình tăng khiến tâm hồn con người rung động. Thơ tình của Ngài cũng là hoa tình, rải khắp trên mảnh đất hoang vu này, khiến muôn hoa nảy nở, tình duyên bền chặt. Điều chúng ta khó quên có lẽ không phải là thân thế biết bao truyền kỳ của vị linh đồng chuyển thế này, không phải là tầm cao Thần Phật khi Ngài được chúng sinh quỳ lễ mà là nỗi quyến luyến sâu sắc đối với hồng trần và vấn vương không dứt đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta cảm động rơi lệ vì thơ tình của Tsangyang Gyatso, những bài thơ tình viết đã ba trăm năm, cũng đã hát suốt ba trăm năm.
[8] Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama): là danh hiệu của nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc phái Gelug. “Đạt Lai” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả”; “Lạt Ma” là từ tiếng Tạng được dịch từ tiếng Phạn “guru”, là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt Lai Lạt Ma” có nghĩa là “Đạo sư với trí tuệ như biển cả”. Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được hiểu là Hộ tín (Người bảo vệ đức tin), Huệ hải (Biển lớn của trí tuệ), Pháp vương (Vua của Chánh Pháp), Như ý châu (Viên bảo châu như ý)… Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của phái Gelug vào năm 1578. Người Tây Tạng xem Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quán Thế m. Mỗi một vị Đạt Lai Lạt Ma được xem là tái sinh của vị trước.
Năm tháng vô tình, thời gian càng dài, nhiều chương tiết của lịch sử đều bị sửa đổi. Năm tháng cũng hữu tình, nó làm người đưa thư cho thời gian, gửi đến câu chuyện của ba trăm năm trước. Đối mặt với tình cảm, bất kể lòng dạ sắt đá đến đâu cũng sẽ biến thành mềm yếu, vì thế những ai từng đọc thơ tình của Tsangyang Gyatso đều sẽ sa vào biển tình cuồn cuộn, khó tự thoát ra. Nhà viết kịch thời Minh Thang Hiến Tổ[9] từng viết trong vở Đình Mẫu Đơn[10]: “Người như Đỗ Lệ Nương, quả có thể nói là người có tình vậy. Tình không biết bắt đầu từ đâu, một mực sâu đậm, lúc sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống. Sống không nguyện ý chết vì tình, chết mà không thể sống lại, đều chẳng phải là chí tình.” Chúng ta đều là người sống vì tình, chết vì tình, dù không cắt đứt được danh lợi, không vứt bỏ được vinh hoa, nhưng vẫn bất cẩn chìm đắm trong sông tình, trả giá nặng nề cho cú sẩy chân của mình.
[9] Thang Hiến Tổ (1550-1616): nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng của Trung Quốc vào cuối thời nhà Minh, người Lâm Xuyên, Giang Tây.
[10] Đình Mẫu Đơn: còn có tên là Hoàn hồn ký, sáng tác năm 1598, sau khi Thang Hiến Tổ từ quan về Lâm Xuyên. Nội dung miêu tả thiếu nữ Đỗ Lệ Nương và thư sinh Liễu Mộng Mai gặp gỡ trong mộng, sau đó Lệ Nương tìm lại giấc mộng không được, ốm tương tư mà chết. Liễu Mộng Mai sau đó đào mộ Lệ Nương lên, Lệ Nương sống lại, cùng Mộng Mai sum vầy hạnh phúc.
Ngắm tháp Phật đối xứng nơi xa, không biết là vị cao tăng nào vì kiếp trước của mình xây tháp và thề nguyện ở đây. Chúng ta chẳng phải cao tăng, không vì tu hành, không vì truy vấn đời trước lại tràn đầy hiếu kỳ và nhung nhớ đối với nơi này. Có lẽ chúng ta định sẵn chỉ là khách qua đường, không cho nổi mảnh đất này bất cứ hứa hẹn nào, nhưng cũng không cần dò hỏi nhân quả hợp tan. Nếu thật sự có thể tìm được nhân duyên kiếp trước, thế thì chuyến đi này không hối tiếc, xin Đức Phật phong ấn tôi ở đường cổ A Lạp xa xăm, vĩnh viễn không trở về.
Chương 3: Duyên hợp [1]
Có người nói, phong cảnh trên thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.
Đời người như nước trôi, chớp mắt đã qua đi, mỗi ngày chúng ta đều bận rộn như con sâu cái kiến, dưới áp lực cuộc sống, đã chẳng có bao nhiêu thời gian hỏi han triết lý nhân sinh. Đợi đến khi bụi trần lắng đọng, lại phát giác tuổi xuân đã lặng lẽ rời xa chúng ta, cảm giác gặp nhau xiêu lòng trước kia đã không còn nữa. Chẳng ai sinh ra đã bằng lòng làm một kẻ cướp đoạt, lẽ nào không biết những nhân vật hô mưa gọi gió thường vào lúc hoàng hôn trăng treo ngọn liễu tự mình chặm máu trị thương?
Tôi vốn là một người không có chí lớn, chỉ muốn sống cuộc đời thanh thản, vui chút thú nhàn tản, viết vài quyển sách phiếm. Cho dù như thế, trong lòng vẫn sẽ hoang vu, khi không có gì cả, đành nhờ vào phong cảnh bốn mùa, ngày hè hái sen hóng mát, cuối đông hong sách sưởi ấm. Vốn cho rằng đời này gần gũi một rẻo non nước Giang Nam, xây gian nhà nhỏ có hàng rào, trồng ít hoa cỏ, khung cửa sổ đơn sơ, phơi mấy chiếc áo hoa, thì sẽ cảm kích rơi lệ vì cuộc sống yên ổn êm đềm này. Nhưng lại không biết rằng, trong lòng mình cũng có khát vọng khó kìm chế. Lúc nhàn tịnh, sẽ bị một khúc nhạc cổ khuấy động tâm tình, sẽ vì một tấm ảnh cũ hồn bay phách lạc, sẽ bị một bài thơ tình sâu sắc dẫn đến chân trời.
Biết bao duyên trước đã thành quá khứ, thật ra thứ không nắm bắt được là thời gian róc rách chảy xuôi. Trăm ngàn năm nay, đời người lần lữa, thời gian lưu luyến, điều khiến ta ghi nhớ thật sự không nhiều. Bất kể lòng dạ con người rộng rãi đến đâu, có thể thu giữ bao nhiêu câu chuyện, đến cuối cùng đều phải trả lại cho năm tháng. Có người nói, phong cảnh trên thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.
Đối với Tây Tạng, tôi cũng đầy hiếu kỳ và khát vọng. Chỉ biết rằng, tất cả phong cảnh của mảnh đất này như một cuốn kinh khó mà lĩnh ngộ. Kinh văn, thánh kinh lại có ý vị sâu xa, nội dung tinh thâm, chứa đựng ý thiền không nói bằng lời. Tôi thường đi lễ chùa, cầm về mấy quyển sách kinh, không đọc, chỉ đặt yên ở một góc, cùng chia sẻ một quãng thời gian cõi Phật với tôi. Tôi biết, sách kinh là cảm ngộ nơi sâu linh hồn của vạn vật tự nhiên, là tâm của biển biếc nương dâu[1]. Mỗi người trong lòng đều có một quyển sách kinh, chỉ là trải nghiệm đời người khác nhau, sẽ có sự đọc hiểu khác nhau.
[1] Biển biếc nương dâu: chỉ những sự thay đổi lớn lao.
Nhớ đến bài văn “Ngồi tàu lửa đi Lhasa[2]”, một cô gái không ngăn được kinh phướn phấp phới vẫy gọi, đặt chân lên con đường hướng về Tây Tạng. Lhasa là một thành phố đầy thần kỳ và biến số, chẳng bao lâu, thành phố lạnh lẽo hoang vắng ấy đã trở thành nơi người đời hồn mơ lòng nhớ. Thành phố này mang vẻ linh hoạt huyền ảo và tưởng tượng vô tận, những dòng thơ sao mà nhiều cám dỗ, khiến chúng ta chìm đắm.
[2] Lhasa: thủ đô truyền thống của Tây Tạng, hiện nay là thủ phủ của Khu tự trị Tây Tạng. Lhasa tiếng Tạng nghĩa là “vùng đất thần thánh, thiêng liêng”.
Có thangka[3], có màn thêu,
Có sư tri sự đang khêu bấc đèn.
Lạt Ma lật giở sách kinh,
Tín đồ trước Phật rạp mình thành tâm.
[3] Thangka (còn được viết là Tangka hay Thanka): là loại tranh vẽ hoặc thêu, treo ở các tự viện và nơi thờ Phật tại gia đình, có thể cuộn lại được, hầu hết có dạng hình chữ nhật. Tranh thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt Ma danh tiếng, chư Bồ Tát, thánh thần, Pháp Luân, Mạn Đà La…
Còn tôi, cũng bị bức bách làm tín đồ của nó, phủ phục trên con đường thiên lộ[4] thần kỳ, viết nên bài thơ khiến người sóng lòng dâng trào. Đó chính là “Sắc lam Thanh Tạng”, một màu xanh lam thuần khiết, xanh lam cao quý, xanh lam ưu sầu, xanh lam xa xưa. Tôi sợ mình vô ý xông vào, sẽ quấy nhiễu giấc mộng sau rèm vắng nơi đất thánh, lại không biết rằng, trên mảnh đất thần thánh này, bảng lảng khói lửa chất phác nhất của nhân gian. Người Tạng ở đây, sinh ra vì số mệnh, họ tin tưởng nhân quả luân hồi. Do đó trong mắt họ, mỗi một ngọn cỏ gốc cây, một hòn đá, thậm chí một hạt bụi hồng, đều có thể gửi gắm sâu sắc. Vì thế, bạn có thể tìm kiếm được những truyền thuyết cảm động ở mọi nơi trên chốn này.
[4] Thiên lộ: Đường sắt Thanh Tạng, nối thành phố Tây Ninh tỉnh Thanh Hải với thành phố Lhasa Tây Tạng, dài 1.956km, chính thức vận hành từ 1/7/2006.
Chương 4: Duyên hợp [2]
Miền đất nơi bò cừu sinh trưởng, nơi tuyết đọng ngàn năm, nơi kinh phướn cắm đầy này cũng là nơi vun trồng tình cảm. Khi lần đầu tiên đọc được câu thơ “Thế gian sao có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng”, tôi liền quyết định viết một bài cảm tưởng về vị tình tăng tên là Tsangyang Gyatso ấy. Nào ngờ người chung tình với câu thơ đó quá nhiều, tôi chỉ là một hạt bụi cát dưới sóng cả, lời chúc phúc dâng lên Ngài thật sự quá nhỏ nhoi không đáng kể. Nếu sau khi con người chết đi đúng là có linh hồn, nhiều năm đã trôi qua, phải chăng Tsangyang Gyatso vẫn còn đang phiêu diêu trên mảnh đất này?
Tsangyang Gyatso, tên của Ngài ở Tây Tạng nhiều đứa trẻ lên ba đều biết, Ngài từng là Phật sống, được muôn người triều bái dưới trời xanh. Nhưng người ta lại mong đợi Ngài hơn với tư cách là vị tình tăng, ở nơi giáp ranh của Phật và tình, viết những câu thơ cảm động trời đất. Thơ tình của Ngài lưu lại trên thế gian, tựa như ma thuật, đã mê hoặc muôn ngàn người đời. Chỉ cần nhắm mắt, liền có thể thấy một thiếu niên tuấn tú, khoác áo sư màu đỏ, nhìn chúng sinh với ánh mắt buồn rầu thương xót. Ngài là linh đồng chuyển thế, đến thế gian là để giúp người, tình yêu cá nhân định sẵn chỉ là khói mây, dù Ngài nặng tình đến đâu, đời người cũng chỉ có thể là một giấc mộng.
Mọi việc trên đời đều có nhân trước quả sau, hoa hồng đến nhân gian vì lá xanh, mùa xuân lộng lẫy vì tuyết trắng, biển biếc dời đổi vì nương dâu. Còn cung Potala sừng sững trên Hồng Sơn[5] ở tây bắc Lhasa, được khánh thành để nghênh đón công chúa Đại Đường. Tương truyền 1.300 năm trước vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên, sau khi vua Tây Tạng Songtsän Gampo[6] dời đô đến Lhasa, vì cưới công chúa Văn Thành của nhà Đường, đặc biệt xây dựng trên Hồng Sơn ba ngôi nhà lầu chín tầng có tổng cộng một ngàn gian phòng, đặt tên là cung Potala. Một tòa cung điện to lớn đẹp đẽ, hùng vĩ mà hoa lệ, tinh xảo mà trang nhã. Để an ủi lòng nhớ quê nhà của công chúa Văn Thành, Songtsän Gampo cho xây ao hồ hình đài trong cung điện, trồng nhiều cây hoa tươi đẹp, mô phỏng kết cấu hoàng cung ngự uyển Đại Đường, gieo hạt giống văn minh cho tòa thành cổ hoang vắng này.
[5] Hồng Sơn (Marpori): được xem là núi thiêng của Bồ Tát Quán Thế m.
[6] Songtsän Gampo (Tùng Tán Cán Bố, ?-649): vị tán phổ (vua) thứ 33 của Thổ Phồn, người sáng lập đế quốc Tây Tạng, cũng là người chấn hưng Phật giáo Mật Tông tại Tây Tạng.
Lịch sử sẽ không lưu lại tên nàng, mà trên mảnh đất ấy của cao nguyên Thanh Tạng, cũng chẳng có miếu của công chúa Văn Thành.
Cung Potala, sau khi được xây dựng lại vào thế kỷ XVII đã trở thành nơi ở mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma các đời, cũng là trung tâm thống trị của chính trị tôn giáo hợp nhất ở Tây Tạng. Cả tòa cung điện hội tụ phong cách Tạng, xây tựa vào núi, khí thế hùng vĩ chấn động tâm linh. Cung Potala dưới trời chiều mang vẻ lạnh nhạt và nghiêm nghị không tranh với đời, có lẽ rời xa nhiễu loạn quá lâu, nó giờ đây rất mực yên tịnh, rất mực ung dung, lại rất mực vô tội. Đây là một tòa cung điện được trao cho truyền kỳ và linh tính, trong đó giữ kín quá nhiều vong linh tịch mịch. Nơi này có tẩm cung của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 - Điện Đức Đan Cát, nếu linh hồn Ngài không chết, phải chăng có thể lưu lại vết tích mờ nhạt cho những người vì tìm kiếm Ngài mà đến đây?
Đằng kia những trác mã[7] già nua tay cầm chuyển kinh luân[8], tụng niệm những câu kinh mà chúng ta nghe không hiểu, nhưng chúng ta biết rõ, họ thành kính như vậy là để cầu phúc, tích công đức, thoát ly nỗi khổ luân hồi. Gió cát trên mảnh đất này đã điêu khắc nét tang thương của riêng người Tạng trên khuôn mặt họ, là sự ban ơn của năm tháng, cũng là dấn ấn của tuổi tác. Tôi biết, Giang Nam cầu nhỏ nước chảy thật sự đã đi xa, còn tôi và sa mạc hoang nguyên này, đã gần đến nỗi đụng chạm da thịt, gần đến nỗi có thể nghe được hơi thở của nhau.
[7] Trác mã: xưng hô của người Tạng đối với nữ giới.
[8] Chuyển kinh luân (Mani luân): một loại pháp khí của Phật giáo Tây Tạng, hình ống, có thể xoay được. Trên mặt khắc sáu chữ châm ngôn “Om Mani Padme Hum”, bên trong đặt kinh Phật. Xoay kinh luân một vòng (thông thường phải xoay theo chiều kim đồng hồ) tương đương niệm kinh văn chứa bên trong một lần.
Chương 5: Tín ngưỡng [1]
Phải chăng có một nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển hiện trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách một đời.
Phải chăng có một nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển hiện trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách một đời. Có lẽ đây chính là duyên phận mà nhà Phật thường nói, bởi vì có duyên, nên mới vừa gặp đã xiêu lòng, mới khó lòng rời bỏ. Tôi là cô gái tin ở duyên phận, dù cứng cỏi, lại luôn rủ mày cúi đầu vì một cảm động tế nhị nào đó.
Đặt chân tới Tây Tạng cũng như sa vào một trận luân hồi thần bí khôn lường, bạn sẽ bị những phong thổ nhân tình không rõ nguyên cớ kia nhấn chìm. Nhất là Phật giáo Tạng truyền đông đảo, từ trong lịch sử xa xưa tiếp diễn đến ngày nay, nhiệt tình và si mê của người Tạng đối với tôn giáo chẳng có mảy may nguội lạnh. Tín ngưỡng không thể khinh nhờn đó truyền từ đời này sang đời khác, trước mặt Thần Phật muôn đời bất diệt, họ thậm chí có thể hy sinh không hối hận. Đó chính là số mệnh, chẳng một ai có thể chọn lựa xuất thân, có lẽ bạn thích cầu đá dương liễu, trăng lạnh hoa mai, vậy mà quanh quẩn trước mắt lại là khói vắng đại mạc, đất tuyết hoang nguyên. Nhưng chúng ta không thể quay lưng với thề ước kiếp trước, vứt bỏ trách nhiệm, bèn ngàn núi muôn sông cất bước độc hành.
Một người không tùy tiện hứa hẹn, lại bằng lòng thề thốt thành khẩn vì một đóa hoa sen thánh khiết, bằng lòng quỳ mãi không dậy vì một ngọn đèn bơ. Trong thế giới luân hồi tràn đầy ảo tưởng, vạn vật đều là bụi nhỏ, bụi nhỏ cũng có thể thành Phật. Con người vì có tín ngưỡng mà ấp ủ hy vọng đối với cuộc sống. Những người Tạng cư trú chốn cao nguyên, tin vào sự tồn tại của Thần Phật, đời đời phủ phục dưới chân núi xanh, vừa nói chuyện với thần linh, vừa chăn ngựa thả cừu, sống giản đơn yên ổn, tiêu dao tự tại. Trong mắt họ, tất cả cỏ cây đều có linh tính, tất cả non nước đều có lời hứa, tất cả bò cừu đều có luân hồi. Mọi người đều là tín đồ của Phật, mọi người đều có tấm lòng thuần túy, trong lòng đều trồng một cây bồ đề.
Lúc đó, Phật giáo Tạng truyền có rất nhiều giáo phái, chia làm Gelug[1] (Hoàng Giáo), Nyingma[2] (Hồng Giáo), Kadam[3] (Hắc Giáo), Kagyu[4] (Bạch Giáo), Sakya[5] (Hoa Giáo), giữa họ cũng không thiếu những vụ tranh đấu, loại trừ lẫn nhau. Mãi đến đầu thế kỳ XVII, ở vùng Thanh Hải và Mông Cổ, địa vị chủ đạo của Gelug (Hoàng Giáo) đã xác lập, nhưng đấu tranh với các giáo phái khác vẫn ngấm ngầm sóng gió. Chúng ta luôn mong thế giới này gió yên sóng lặng, mong tất cả buồn thương đau đớn đều được nụ cười và khoan dung xóa nhòa, mong giữa người và người không cần phân tranh, không phải tổn thương. Nhưng thực tế vẫn trái với nguyện vọng, dù thanh tịnh như Đức Phật, quảng đại như Đức Phật, cũng có lúc bất lực.
[1] Phái Gelug (Cách Lỗ): Gelug nghĩa là “Hạnh Đức, Thiện Quy”, phái Gelug là “tông phái của những hiền nhân tuân thủ thanh quy giới luật”. Cũng được gọi là Hoàng Giáo hay phái Hoàng Mạo vì các vị sư phái này mang mũ màu vàng. Do Đại sư Tsongkhapa (Tông Khách Ba) sáng lập vào thế kỷ XIV.
[2] Phái Nyingma (Ninh Mã): Nyingma nghĩa là “Cổ, Cựu”, phái Nyingma là phái Cổ Mật hay Cựu phái vì được sáng lập sớm nhất, giáo lý truyền xuống từ thế kỷ VIII, hình thành vào thế kỷ XI. Cũng được gọi là Hồng Giáo hay phái Hồng Mạo vì các vị sư phái này thường mang mũ màu đỏ. Tôn thờ Đại sư Liên Hoa Sinh là thủy tổ.
[3] Phái Kadam (Cát Đương): Kadam nghĩa là “dùng lời dạy của Phật để chỉ dẫn người phàm tiếp nhận đạo lý Phật giáo”. Sáng lập năm 1056. Đến thế kỷ XV phái Gelug nổi lên, mà phái Gelug phát triển trên cơ sở giáo lý của phái Kadam, do đó phái Kadam sáp nhập vào phái Gelug.
[4] Phái Kagyu (Cát Cử, Ca Nhĩ Cư): phái Khẩu Truyền hay Nhĩ Truyền, do chư đạo sư trực tiếp truyền miệng lại cho đệ tử, chứ không qua văn tự. Được gọi là Bạch Giáo vì y phục của các vị sư phái này có thêm sọc màu trắng. Do Đại sư Marpa Lotsawa (Mã Nhĩ Ba) sáng lập.
[5] Phái Sakya (Tát Ca): Sakya nghĩa là “Màu Xám”. Do tu viện chính của phái này là tu viện Sakya xây ở nơi đất màu xám nên đặt tên như vậy. Lại do trên tường bao quanh tu viện chính tô vẽ hoa văn ba màu đỏ - trắng - đen tượng trưng cho trí tuệ - từ bi - sức mạnh của ba vị Bồ Tát Văn Thù - Quán Thế âm - Kim Cương Thủ, nên còn gọi là Hoa Giáo. Sáng lập vào thế kỷ XI bởi Đại sư Konchog Gyalpo (Cống Khước Kiệt Bố).
Ngày 15 tháng 12 năm 1616, Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 Yonten Gyatso[6] đột nhiên qua đời ở tu viện Drepung[7], hưởng dương 28 tuổi. Về cái chết của Yonten Gyatso, có người nói là Tsangpa Khan Phuntsok Namgyal[8] phái người ám sát. Lúc đó Tsangpa Khan bị bệnh, nghe nói là do Đạt Lai thứ 4 Yonten Gyatso nguyền rủa ông ta, nhưng bị Tsangpa Khan phát hiện, bèn phái người giết chết Yonten Gyatso. Đương nhiên, đây chỉ là truyền thuyết, bầu trời mây khói mịt mù, lịch sử cũng trở nên mơ hồ không rõ, đời người phù du như giấc chiêm bao, không ai có thể xác định năm đó đã xảy ra chuyện gì. (Lúc đó Tsangpa Khan nghi Đạt Lai nguyền rủa, dẫn đến mắc nhiều bệnh, liền công khai mệnh lệnh không cho Đạt Lai chuyển thế, nhờ Ban Thiền[9] Lobsang Chökyi Gyaltsen[10] nhiều lần yêu cầu, mới chuẩn y tìm kiếm linh đồng Đạt Lai thứ 5.”)
[6] Yonten Gyatso (Vân Đan Gia Mục Thố, 1589-1616): Đạt Lai Lạt Ma thứ 4.
[7] Tu viện Drepung (Triết Bạng): nằm cách ngoại ô Lhasa khoảng 7km về phía tây, xây năm 1416, vốn là nơi cư ngụ của các vị Đạt Lai Lạt Ma trước khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala. Tại đây còn có trường đại học Phật giáo, có lúc số tăng sĩ tu học lên đến cả 10.000 người.
[8] Tsangpa (Tạng Ba) là một triều đại thống trị phần lớn Tây Tạng từ năm 1565 đến 1642. Khan (Hãn) trong tiếng Mông Cổ là một tước hiệu có nhiều nghĩa, ban đầu có nghĩa là thủ lĩnh một bộ tộc, đôi khi cũng có thể dịch là vua, hoàng đế. Phuntsok Namgyal là vị vua Tsangpa cai trị trong khoảng thời gian 1603-1620.
[9] Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama): chức vị cao thứ hai trong phái Gelug sau Đạt Lai Lạt Ma. “Ban Thiền” nghĩa là “Đại học giả”. Danh hiệu này do Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 tặng cho thầy mình là Lobsang Chökyi Gyaltsen, trụ trì tu viện Tashinlhunpo trong thế kỷ XVII. Ban Thiền Lạt Ma được xem là hóa thân của Phật A-di-đà, và cũng được xem là một dòng tái sinh.
[10] Lobsang Chökyi Gyaltsen (La Tang Khướt Cát Kiên Tán, 1570-1662): Ban Thiền Lạt Ma thứ 4.
Đúng vậy, sau khi Yonten Gyatso qua đời, theo quy củ của Phái Gelug, phải tìm kiếm linh đồng chuyển thế. Người sinh trưởng ở miền đất này, đều là tín đồ của Phật Đà, tín đồ của vận mệnh, họ tin tưởng con người có ba kiếp, chết rồi sẽ chuyển thế luân hồi, tái tục duyên chưa hết của kiếp trước. Một người bắt đầu từ khi sinh ra, lúc ngây ngô chưa biết sự đời, đã phải gánh vác trách nhiệm và nợ nần, vinh nhục và giàu nghèo của kiếp trước. Chúng ta cho rằng có thể sửa đổi số mệnh, hóa ra là không thể từ bỏ, do đó luôn cảm thấy bản thân phải sống thân bất do kỷ. Có lẽ bạn chỉ muốn làm một người dân bình thường, lại cứ sinh vào nhà vua chúa. Có lẽ bạn muốn thống trị thiên hạ, trở thành bá chủ hô mưa gọi gió, nhưng lại lưu lạc thành tên giặc cỏ lỗ mãng.