Old school Swatch Watches
Đọc truyện
Truyện Teen | Ngôn Tình | Xuyên Không | Tiểu Thuyết
HỒI 6
Ðốt Kim Quyết, Ðổng Trác Làm Càn.

Giấu Ngọc Tỷ, Tôn Kiên Trái Ước

Trương Phi tế ngựa xấn vào cửa quan, nhưng tên và đá bắn xuống như mưa, không thể nào tiến vào được, phải quay ngựa trở về.

Chư hầu tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi lại sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng. Thiệu bèn đưa tờ hịch đến Tôn Kiên bảo Kiên tiến binh.

Tôn Kiên liền đem Hoàng Cái, Trình Phổ, đến trại Viên Thuật, rồi cầm gậy vạch xuống đất nói rằng:

- Ðổng Trác với tôi thật không có hằn thù gì, nay tôi không nghĩ gì đến thân, xông pha mũi tên hòn đạn để trừ hắn, trước vì nước nhà, sau để báo thù riêng cho nhà tướng quân (trỏ Viên Ngỗi), thế mà tướng quân nghe lời gièm pha, không phát lương cho tôi, để đến nỗi tôi bị thua, sao tướng quân đành lòng thế được?

Thuật thấy vậy, sợ hãi không biết nói sao, bèn sai đem chém người gièm, để tạ lỗi Tôn Kiên. Khi ấy bỗng có người đến báo với Kiên rằng:

- Trên cửa ải có một tướng cưỡi ngựa đến trại, muốn vào hầu tướng quân.

Kiên từ giã Thuật về trại, gọi hỏi ai, hóa ra viên tướng yêu của Ðổng Trác, tên là Lý Thôi.

Kiên hỏi:

- Ngươi lại đây làm gì?

Lý Thôi nói:

- Thừa tướng chỉ kính trọng tướng quân thôi! Nay thừa tướng muốn kết thân với tướng quân; thừa tướng có một cô con gái muốn gả cho con trai tướng quân.

Tôn Kiên nổi giận mắng rằng:

- Ðổng Trác là thằng nghịch thiên vô đạo, làm xã tắc nghiêng đổ, ta muốn giết cả chín họ nhà hắn đi để tạ thiên hạ, sao lại thèm kết thân với hắn! Ta tha chém cho ngươi, ngươi về mau đem dâng cửa ải cho ta. Mau mau lên! Chậm thì ta băm xương ra bây giờ!

Lý Thôi lủi thủi ra về, kể với Ðổng Trác. Trác giận lắm, bèn hỏi Lý Nho.

Nho nói:

- Lữ Ôn Hầu thua trận mới về, quân sĩ ngã lòng cả, không có bụng đánh nhau nữa. Nay nên kéo quân về Lạc Dương, đem vua sang Trường An, để ứng vào lời đồng giao mấy hôm nay có nói rằng:

Mé Tây một nhà Hán.

Mé Ðông một nhà Hán.

Hươu chạy về Trường An,

Mới khỏi phải gặp nạn.

Mé Tây một nhà Hán nghĩa là: đức Cao Tổ ngày xưa đóng đô ở Trường An, truyền ngôi được mười hai vua. Mé Ðông một nhà Hán nghĩa là: vua Quang Vũ đóng đô ở Lạc Dương, cũng truyền ngôi được mười hai vua. Thế là vận trời xoay vần. Nay thừa tướng lại lên thiên đô về Trường An, mới khỏi lo được.

Trác mừng nói rằng:

- Ngươi không nói thì ta không biết!

Trác bèn đem Lữ Bố về Lạc Dương, rồi hội ngay các quan văn võ để bàn việc thiên đô.

Khi các quan đã đến đông. Trác nói rằng:

- Nhà Hán ta ở Lạc Dương, hơn hai trăm năm nay, khí số đã hết. Ta xem bây giờ vương khí tụ ở Trường An. Vậy ta muốn rước vua về đó, các quan nên gấp rút sắm sửa hành trang.

Tư Ðồ là Dương Bưu nói rằng:

- Trường An bị tàn phá đã lâu rồi. Nay bỗng dưng ta bỏ cả tôn miếu, hoàng lăng mà đi sang đó, tôi sề rằng thiên hạ kinh động, mà thiên hạ kinh động lên thì dễ, yên lại thì khó. Xin Thừa Tướng hãy xét cho kỹ.

Trác giận mắng Dương Bưu:

- Ngươi lại dám ngăn trở việc lớn nước nhà à?

Thái Úy là Hoàng Uyển cũng nói rằng:

- Dương Tư Ðồ nói thế phải đấy: trước kia trong lúc Vương Mãng thoán nghịch, kế đến Canh Thủy, Xích Mi nổi loạn, Trường An bị đốt cháy thành ra tro sỏi. Vả lại nhân dân xiêu tán, trăm phần không còn một hai phần. Tôi nghĩ không nên bỏ cả cung điện ở đây mà đi chỗ đất hoang ấy.

Trác nói:

- Tại Lạc Dương đây trộm giặc nhiều lắm, nhân dân loạn lạc, đi mất cả. Trường An có núi Hào, núi Hàm hiểm trở; lại gần Lũng Hữu, đá gỗ và gạch ngói dễ kiếm, sửa sang cung thất độ hơn một tháng thì xong, không ai được nói lôi thôi nữa!

Tư Ðồ là Tuân Sảng lại can rằng:

- Thừa Tướng thiên đô đi thì thiên hạ tất sẽ nhiễu động ngay.

Trác tức mình gắt rằng:

- Ta vì thiên hạ mà lo việc thiên đô, có xá gì những đứa tiểu nhân!

Ngay hôm ấy Trác cách chức Dương Bưu, Hoàng Uyển, Tuân Sảng, giáng xuống làm thứ dân.

Trác trở ra lên xe, thấy có hai người đứng trước vái, trông ra thì là Thượng Thư Chu Bật và Hiệu Úy Ngũ Quỳnh, Trác hỏi có việc gì. Bật nói:

- Chúng tôi nghe thừa tướng muốn thiên đô, nên lại can ngăn.

Trác giận nói:

- Trước ta nghe hai ngươi, dùng Viên Thiệu cho hắn làm quan, bây giờ hắn làm phản. Thế ra hắn với các ngươi cùng một đảng!

Nói rồi, Trác sai võ sĩ đem Chu Bật, Ngũ Quỳnh ra cửa phủ chém, rồi hạ lệnh thiên đô, hạn đến ngày hôm sau phải đi.

Lý Nho xui Ðổng Trác:

- Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giàu, ta nên tịch thu của cải, lấy phát lương cho quân. Phàm bao nhiêu môn hạ Viên Thiệu ngày trước, nên đem giết cả đi để lấy của, sẽ thu được vô số.

Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt cả những người giàu ở Lạc Dương, cả thẩy mấy ngàn hộ, mỗi người cắm một lá cờ lên đầu, để bốn chữ "Phản Thần Nghịch Đảng" rồi đem ra ngoài chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch.

Lý Thôi, Quách Dĩ, bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Trường An, cứ mỗi một toán dân lại cho một đội quân đi đàn áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Lại cho quân sĩ đi hãm hiếp đàn bà con gái, cướp hết lương thực của dân, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc: quân lính cầm đao, giết người ngay ở giữa đường.

Lúc Trác ra đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân chúng, và tôn miếu, cung phủ; Nam, Bắc hai cung, lửa khói mù mịt; bao nhiêu cung cấm hóa ra tro cả.

Trác lại sai Lữ Bố khai quật hết cả những lăng tiên hoàng, hậu phi để lấy vàng bạc châu báu. Quân sĩ thấy vậy cũng thừa thế đào mả các nhà quan, nhà dân.

Ðổng Trác sai xếp những đồ vàng bạc vóc nhiễu được vài ngàn xe, rồi bức thiên tử và hậu phi phải sang Trường An.

Tướng Ðổng Trác tên là Triệu Xầm, thấy Trác đã bỏ Lạc Dương, bèn dâng ngay cửa Dĩ Thủy cho Tôn Kiên. Kiên kéo binh vào trước. Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi vào cửa Hổ Lao; chư hầu cũng dẫn quân vào cả.

Tôn Kiên đi đến Lạc Dương thấy trong thành lửa cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bốc lên tận trời; dưới đất khói đen mù mịt; trong một quãng hai ba trăm dặm, tịnh không có tiếng gà kêu chó cắn.

Ðầu tiên Kiên sai quân vào dập lửa, đoạn ra lệnh cho chư hầu đến đóng quân mã ở trên bãi đất hoang. Tào Tháo đến, thấy Viên Thiệu cũng ở đấy, bèn hỏi rằng:

- Nay Ðổng tặc đã kéo về Trường An rồi, ta nên thừa thế mà đuổi theo bắt hắn mới phải, Bản Sơ lại đóng quân ở đây, là ý làm sao?

Thiệu nói:

- Chư hầu đều mỏi mệt cả, đuổi theo, tôi sợ không được việc gì.

Tháo nói:

- Ðổng tặc đốt cung thất, bức vua thiên đô; trong nước rối động, dân không biết theo ai. Ðó là lúc trời hại hắn đấy, nhân lúc nầy chỉ đánh một trận là yên thiên hạ, sao các ông không đánh?

Chư hầu đều nói:

- Ta không nên khinh động!

Tháo giận nói rằng:

- Ðồ trẻ con cả, không đáng cùng mưu đồ việc lớn!

Nói rồi tự dẫn hơn một vạn quân, sai Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Lý Ðiển, Nhạc Tiếu, luôn ngày đêm đuổi theo Ðổng Trác.

Khi Ðổng Trác đi đến Vinh Dương, Thái Thú là Từ Vinh ra tiếp.

Lý Nho nói:

- Thừa Tướng mới đi khỏi Lạc Dương, tôi sợ có quân đuổi theo nên sai Từ Vinh phục quân ở bên cạnh núi ngoài thành; hễ có quân đuổi theo đi qua thì cứ để cho đi, đợi khi nào đi khỏi chỗ quân phục, trong này ta đánh trở ra, hắn tất thua chạy, bấy giờ ông sẽ đánh chẹn đường, còn quân đi sau tất không dám đánh đuổi nữa.

Trác nghe kế ấy, sai Lữ Bố đem tinh binh đi chặn hậu.

Bố đang đi bỗng có một toán quân Tào xấn đến. Bố cười nói rằng:

- Lý Nho đoán không nhầm!

Bố đem quân mã bày dàn, Tào Tháo tế ngựa lên gọi to:

- Nghịch tặc! Bây bức thiên tử và đem trăm họ đi đâu?

Lữ Bố mắng rằng:

- Tên phản chủ kia, sao dám nói càn?

Hạ Hầu Ðôn vác giáo nhảy ngựa, xông thẳng vào để đâm Lữ Bố. Ðôn với Bố đánh nhau được vài hiệp. Lý Thôi dẫn một đội quân từ bên tả kéo ra. Tháo lại sai Hạ Hầu Uyên ra địch. Lúc bấy giờ lại thấy ở bên hữu có tiếng reo. Quách Dĩ kéo quân ra. Tháo sai Tào Nhân ra địch, nhưng đằng kia ba mặt quân mã đánh dồn lại, thế khó đương nổi.

Hạ Hầu Ðôn chống với Lữ Bố không lại, phi ngựa chạy về. Bố thúc quân vào đánh gấp. Quân Tháo thua chạy kéo về Vinh Dương.

Khi chạy đến dưới sườn núi, bấy giờ đã canh hai, trăng sáng như ban ngày, Tháo sắp sửa hội quân lại làm bếp thổi cơm ăn, bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo ầm ầm; quân phục của Từ Vinh xông ra. Tào Tháo vội vàng tế ngựa cướp đường chạy trốn; không ngờ gặp ngay Từ Vinh, Tháo lại quay đầy chạy, Vinh giương cung bắn một phát tên trúng ngay vào vai Tháo.

Tháo vừa đeo tên vừa chạy; chạy qua một rặng núi, có hai tên lính phục trong đám cỏ, trông thấy ngựa Tháo đi đến, hai ngọn giáo cùng phóng ra. May đâu một tướng vừa tế ngựa đến, múa đao chém chết hai tên lính, cứu được Tào Tháo.

Tháo trông xem ai thì là Tào Hồng. Tháo bảo Hồng rằng:

- Thôi! Ta đành chết ở đây, hiền đệ nên trốn đi mau.

Hồng nói rằng:

- Xin ngài lên ngựa ngay. Tôi tình nguyện đi bộ.

Tháo hỏi:

- Giặc đuổi đến nơi, ngươi làm thế nào?

Hồng nói:

- Thiên hạ có thể không có tôi, nhưng thiên hạ không thể không có ngài!

Tháo nói:

- Ta nếu lại được sống, thực là nhờ ngươi đó!

Tháo lên ngựa. Hồng cởi áo giáp, cắp đao chạy theo sau.

Chạy đến độ canh tư, chẹn mất đường đi. Ðằng sau nghe thấy tiếng reo hò đã đến nơi. Tháo nói:

- Thôi! Mệnh ta đến thế này, sống sao được nữa!

Hồng kíp vực Tháo xuống ngựa, cởi áo bào ra, cùng Tháo lội qua sông. Vừa qua đến bờ sông bên kia, quân đuổi cũng vừa đến, tên bắn qua sông như mưa. Tháo cứ mặc cả quần áo ướt, lướt thướt mà chạy, chạy mãi đến mờ mờ sáng, được hơn ba mươi dặm, đến một gò đất mới tạm nghỉ hơi một chốc.

Bỗng nghe có tiếng reo, một toán quân mã kéo lại, thì ra Từ Vinh cứ bên kia sông chạy theo lên mạn trên, sang đò đuổi kịp.

Trong khi Tháo đương hoảng hốt. Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên vừa đem vài mươi quân kỵ đến, quát to lên rằng:

- Từ Vinh, chớ được hại chủ ta!

Vinh xông đến đánh Hạ Hầu Ðôn. Ðôn vác giáo đâm Vinh ngã xuống ngựa, rồi đánh tan quân Vinh. Ðằng sau, Tào Nhân, Lý Ðiển, Nhạc Tiến cũng dần dần tìm đến, ra mắt Tào Tháo, nửa lo nửa mừng. Tháo thu thập tàn quân, còn độ năm trăm, kéo về Hà Nội. Tàn quân của Trác chạy về Trường An.

Ðây nói ở Lạc Dương, chư hầu chia quân đóng trại. Tôn Kiên dập tắt lửa trong cung, đóng quân trong thành, đặt trướng ngay trên đền Kiến Chương rồi sai quân quét dọn những gạch ngói ở các cung điện. Phàm những lăng tẩm mà Ðổng Trác đã khai quật lên, Kiên sai chôn cất lại cả. Lại cất ba gian điện, lợp cỏ ở trên nền nhà Thái Miếu, đặt linh vị các vua, giết trâu mổ bò, mời chư hầu đến tế. Tế xong rồi, các tướng ai về trại ấy.

Kiên về trại, đêm hôm ấy trăng sao vàng vặc. Kiên cầm thanh kiếm ra sân, ngẩng mặt lên xem thiên văn thấy trong tồ tử vi có khí trắng mờ mờ. Kiên than rằng:

- Ðế tinh không được tỏ, cho nên tặc thần loạn nước, muôn dân phải lầm than, kinh thành không còn gì nữa.

Vừa nói vừa rỏ nước mắt khóc. Bên cạnh có tên lính trỏ tay bảo Kiên rằng:

- Kìa, ở phía Nam điện này có hào quang năm sắc, từ dưới đáy giếng bốc lên.

Kiên liền sai quân sĩ đốt đuốc xuống giếng tìm xem. Một lát quân mò đem lên được một cái thây người đàn bà chết đã lâu ngày nhưng chưa nát; người này mặc theo lối của cung đình, dưới cổ đeo một cái túi gấm, mở túi ra xem thấy một cái ấn bằng ngọc, vuông bốn tấc, trên núm dấu chạm năm con rồng; bên cạnh có sứt một miếng phải lấy vàng bịt lại; mặt dấu khắc tám chử triện: "Phụ Mệnh Vu Thiên, Ký Thọ Vĩnh Xương"

Kiên được ấn ngọc ấy, hỏi Trình Phổ, Phổ nói:

- Ðấy là ngọc tỷ truyền quốc. Ngày xưa, Biện Hồ ở dưới núi Kinh Sơn trông thấy chim phượng hoàng đậu ở trên hòn đá, đem đá ấy về tiến vua Văn Vương nước Sở. Lúc phá đá ra trong có hòn ngọc. Ðến đời nhà Tần, năm thứ 26 (221 trước công nguyên) vua Tần sai thề ngọc dũa ra làm ấn quốc bảo. Tám chữ triện viết ở trên mặt ấn là chử Lý Tư. Năm thứ 28 Tần Thủy Hoàng đi tuần đến hồ Ðộng Ðình, gặp sóng to gió lớn, thuyền sắp đắm, vua vội vàng ném ngọc tỷ ấy xuống hồ mới không việc gì. Ðến năm thứ 38, Thủy Hoàng đi tuần đến núi Hoa Âm, đương đi gặp một người tay cầm ngọc tỷ đứng đón đường, đưa cho quân hầu nói rằng: "Ðem cái nầy về trả Tổ Long"

Nói xong rồi biến mất. Ấn ngọc ấy lại về nhà Tần. Ðến năm sau, Thủy Hoàng mất. Tử Anh đem ngọc dâng cho Cao Tổ nhà Hán. Ðến lúc Vương Mãng khởi loạn, hoàng hậu vua Hiếu Nguyên cầm ngọc ấy đánh Vương Tầm, Tô Hiến sứt mất một góc, phải lấy vàng bịt vào. Vua Quang Vũ được ấn ngọc ấy ở Nghi Dương, truyền đến bây giờ. Khi mười tên hoạn quan làm loạn, bức đem Thiếu đế ra Bắc Mang, lúc về thấy mất ngọc tỷ. Nay tướng quân lại tìm được, tất là trời cho tướng quân đó. Ðiềm này là điềm báo tướng quân sẽ làm vua. Vậy tướng quân không nên ở lâu chốn nầy, mà nên về ngay Giang Ðông để mưu toan việc lớn!

- Ngươi nói chính hợp ý ta. Ngày mai ta sẽ cáo bệnh về.

Bàn định xong, Kiên truyền quân sĩ không được nói hở cho ai biết. Không ngờ trong đám quân sĩ có một người cùng làng với Viên Thiệu, biết việc đó, muốn nhân dịp tiến thân, ngay đêm hôm ấy lẻn sang báo với Viên Thiệu.

Thiệu thưởng cho người ấy rồi giữ lại ở trong quân.

Hôm sau Tôn Kiên sang trại Viên Thiệu để cáo từ, nói rằng:

- Tôi hơi khó ở, xin phép về Trường Sa.

Thiệu cười nói rằng:

- Tôi đã biết bệnh của ông rồi. Bệnh ấy là bệnh ngọc tỷ!

Kiên thất sắc, hỏi rằng:

- Ai nói với ông thế?

Thiệu nói:

- Nay chúng ta vì nước đánh giặc. Ngọc tỷ là của báu triều đình, ông bắt được, nên ở chỗ minh chủ, đợi khi nào giết được Ðổng Trác, thì đem trả lại cho nhà vua. Nay ông giấu ấn ấy mà bỏ đi, định làm gì?

Kiên cứ chối:

- Ngọc tỷ làm gì có ở tôi?

Thiệu nói:

- Cái gì bắt được ở đáy giếng đền Kiến Chương, bây giờ ở đâu?

Kiên nói:

- Tôi không có của ấy cưỡng bức nhau làm gì thế?

Thiệu nói:

- Mau mau bỏ ra đây, kẻo vạ vào thân bây giờ!

Kiên trỏ tay lên trời thề rằng:

- Tôi được của ấy mà giấu đi, thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn.

Các tướng đều nói rằng:

- Văn Ðài đã thề như thế, chắc là không bắt được ngọc tỷ.

Thiệu gọi người làm chứng ra, hỏi Tôn Kiên rằng:

- Lúc mò được ngọc, có người này ở đấy không?

Kiên giận lắm, rút ngay kiếm ra, định chém người ấy. Thiệu cũng rút kiếm ra bảo rằng:

- Hễ ngươi chém hắn thì ngươi dối ta.

Nhan Lương, Văn Sú đứng sau lưng Viên Thiệu cũng rút kiếm ra. Sau lưng Tôn Kiên, Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, cũng cầm đao lăm lăm ở trong tay. Các tướng đều xúm lại can đôi bên. Kiên lập tức trở ra, lên ngựa về nhổ trại, bỏ Lạc Dương đi.

Thiệu giận lắm, liền viết một lá thư, sai người tâm phúc ngay đêm hôm ấy đem sang Kinh Châu, đưa cho quan Thứ Sử là Lưu Biểu, sai Biểu chẹn đường Kiên, lấy lại ngọc tỷ.

Hôm sau có người báo rằng:

- Tào Tháo đuổi Ðổng Trác, đánh nhau ở Vinh Dương thua to trở về.

Thiệu bèn sai người đón Tháo vào trại, ở tiệc rượu cùng với Tháo giải phiền.

Trong khi uống rượu, Tào Tháo than rằng:

- Ta trước kia khởi nghĩa lớn, cốt là muốn vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng trượng nghĩa mà đến với tôi, ỵ tôi muốn phiền Bản Sơn đem quân Hà Nội sang đóng ở Mạch Tân; còn các quân Toan, Táo cứ giữ vững Thành Cao, giữ cửa ải Ngao Thương, ngăn Hoàn Viên, Ðại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu. Còn Công Lộ đem quân Nam Dương sang đóng ở Ðan Triết, tiến vào cửa Vũ Quan, để cho cái uy thế ở Tam Phụ to lên. Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau, chỉ giữ làm nghi binh, để thiên hạ trông rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ gian, thì việc lớn có thể định ngay được. Thế mà các ông dùng dằng mãi chẳng tiến quân, làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, tôi lấy làm xấu hổ quá!

Lũ Thiệu không ai nói câu gì. Một chốc tiệc tan.

Tháo thấy lũ Thiệu mỗi người một bụng, nghĩ cũng không làm được việc lớn, bèn tự kéo quân về Dương Châu.

Công Tôn Toản thấy tình cảnh thế, cũng chán. Một bữa Toản bảo với Lưu, Quan, Trương:

- Tôi xem Viên Thiệu không làm nên được trò trống gì đâu; ở lâu tất sinh biến , chi bằng chúng ta hãy về.

Bèn nhổ trại về phía Bắc. Ði đến huyện Bình Nguyên, Toản sai Lưu Bị làm tướng ở đó, giữ lấy đất, nuôi lấy quân.

Thái Thú Duyện Châu Lưu Ðại, thiếu lương hỏi vay Thái Thú Ðông Quận là Kiều Mạo, Mạo không cho vay, Ðại đem quân xông vào dinh Mạo, giết Mạo rồi thu phục quân sĩ và thu hết của quân lương.

Viên Thiệu thấy chư hầu mỗi người đi một ngả, cũng rời Lạc Dương kéo quân về Quan Ðông.

Thứ Sử Kinh Châu là Lưu Biểu, bắt được thư của Viên Thiệu xin đem quân chẹn đường Tôn Kiên, liền sai ngay Khoái Việt và Sái Mạo dẫn một vạn quân ra đón đường đánh Kiên.

Lưu Biểu, tên chữ là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương, cũng là tôn thân nhà Hán. Lúc còn nhỏ, Biểu kết bạn với bảy danh sĩ, bấy giờ người ta gọi là "Giang Hạ bát tuấn". Trong tám người ấy thì một người là Lưu Biểu, còn tám người nữa là: 1- Trần Tường; 2- Phạm Phang; 3- Khổng Giực; 4- Phạm Khang; 5- Ðàn Phu; 6- Trương Kiệm; 7- Sầm Hĩnh.

Biểu cùng bảy người ấy kết làm bạn, nhưng ngoài ra còn có mấy người phù tá. Một là Khoái Lương, người ở Diên Bình, hai là Khoái Việt cũng người ở Diên Bình, ba là Sái Mạo người ở Tương Dương.

Khoái Việt, Sái Mạo dẫn một vạn quân ra chặn đường Tôn Kiên vừa đến đó, Khoái Việt bày trận rồi nhảy ngựa ra.

Kiên thấy Việt, hỏi rằng:

- Khoái Việt cớ sao chẹn đường ta?

Việt nói:

- Ngươi đã làm tôi nhà Hán, sao được giấu ngọc tỷ truyền quốc? Ðưa ra ngay ra đây, ta sẽ cho đi.

Kiên tức lắm, sai ngay Hoàng Cái ra đánh. Sái Mạo múa đao lại địch. Ðược vài hiệp, Cái hoa ngọn roi, đánh trúng ngay miếng kính che ngực Mạo. Mạo quay đầu ngựa chạy. Kiên thừa thế đuổi đánh khỏi cửa ô. Lúc bấy giờ, ở trong núi bỗng thấy chiêng trống khua rầm lên. Thì ra Lưu Biểu vừa dẫn quân đến. Kiên ngồi trên ngựa chào hỏi tử tế, rồi nói với Lưu Biểu rằng:

- Ta với Cảnh Thăng là láng giềng với nhau. Sao Cảnh Thăng lại nở tin lời Viên Thiệu và xử tệ với ta làm vậy?

Biểu nói:

- Nhà ngươi dấu quốc bảo, muốn làm phản à?

Kiên lại thề:

- Ta mà có của ấy ở trong mình, xin chết ở dưới mũi tên viên đạn.

Biểu nói:

- Muốn cho ta tin, nhà ngươi phải để cho ta khám cả đồ hành Lý.

Kiên nổi khùng, mắng Lưu Biểu rằng:

- Tài sức ngươi thấm vào đâu, mà dám khinh ta!

Hai bên sắp sửa giao binh đánh nhau. Lưu Biểu lui ngay. Kiên thấy vậy thả ngựa sấn lại. Bấy giờ quân phục ở sau hai rặng núi kéo ồ ra; sau lưng Khoái Việt, Sái Mạo ập lại, vây bọc lấy Tôn Kiên ở giữa trận.

Thế rõ thực là:

Ngọc tỷ đem về không dùng được,

Lại vì của ấy động binh đao.

Chưa biết Tôn Kiên làm thế nào mà thoát được thân, xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI 7
Viên Thiệu Qua Cầu Ðuổi Công Tôn Toản

Tôn Kiên Sang Sông Ðánh Lưu Cảnh Thăng.

Nhắc lại Tôn Kiên đang bị quân Lưu Biểu vây ngặt, may nhờ có ba tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương đánh phá vòng vây cứu thoát. Tôn Kiên thu góp tàn quân thấy hao hơn phân nữa, liền kéo về Giang Ðông. Và, từ đấy Tôn Kiên ôm mối hận với Lưu Biểu.

Bấy giờ, Viên Thiệu đóng quân ở Hà nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu cấp cho binh lính.

Quan Thứ sử Ký Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp.

Mưu sĩ Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu:

- Ðại trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương? Ký Châu đất rộng dân giàu, sao Tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi?

Viên Thiệu nói:

- Ta cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay.

Phùng Kỷ nói:

- Nay ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân đánh Ký Châu, và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào Công Tôn Toản cũng hưng binh. Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản đem quân đánh, thế nào cũng mời Tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức. Chừng ấy Tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì?

Viên Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản.

Công Tôn Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc, và chia đất Ký Châu, lòng mừng lắm, lập tức khởi binh.

Trong lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết. Phúc hoảng sợ, triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị.

Tuân Thầm bàn:

- Công Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Ðại, đông lắm, nếu kéo binh đến đấy, Ký Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Ðức giúp sức thì chúng ta chống sao nổi? Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế không sợ gì Công Tôn Toản nữa.

Hàn Phúc nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu. Quan Trưởng sử Cảnh Vũ vội can:

- Không nên. Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẩn, phải nhờ đến chúng ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết. Sao chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn? Làm như thế chẳng khác nào dẫn cọp vào chuồng dê.

Hàn Phúc nói:

- Ta vốn là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cõi, may được trấn giữ châu quận nầy. Người xưa có nói: "Lựa người tài đức mà nhường ngôi". Huống hồ, ta với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao.

Cảnh Vũ than:

- Tướng quân đã có Ý như vậy thì Ký Châu coi như đã mất rồi.

Hay được việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu.

Vài ngày sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn Xủ giết ngay Quan Thuần,

Viên Thiệu vào thành Ký Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn Uy tướng quân, rồi cắt đặt cho bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu. Thế là Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc.

Hàn Phúc hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu, nương nhờ Thái Thú Trương Mạc.

Công Tôn Toản hay tin Viên Thiệu đã chiếm Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt sang gặp Viên Thiệu, yêu cầu chia đất cho mình như lời hứa.

Viên Thiệu bảo Công Tôn Việt:

- Hãy về mời lệnh huynh sang đây mới tính chuyện ấy được.

Công Tôn Việt ra về. Nhưng đi chưa đầy năm mươi dặm, có một toán quân phục xông ra chận đường, và hô lớn:

- Ta là gia tướng của Ðổng Thái Sư đây.

Dứt lời, quân sĩ dùng cung tên bắt như mưa. Công Tôn Việt không thoát khỏi, phải tử nạn. Những quân tùy tùng chạy thoát về báo rõ sự thể với Công Tôn Toản. Toản đùng đùng nổi giận mắng lớn:

- Thằng Viên Thiệu lừa dối, gạt ta đem binh đánh Hàn Phúc, để chiếm trọn Ký Châu. Nay lại cho người giả làm quân Ðổng Trác, hại mạng em ta nữa. Thù nầy không lẽ không báo?

Mắng rồi, liền khởi binh bản bộ đi đánh Ký Châu. Viên Thiệu được tin Công Tôn Toản kéo quân tới liền khai thành dẫn quân ra ứng chiến. Hai bên gặp nhau trên sông Bàn Hà. Viên Thiệu thì bố trận nơi đầu cầu phía Ịông, còn Công Tôn Toản thì dàn quân ở đầu phía Tây. Công Tôn Toản cỡi ngựa đứng trên cầu mắng lớn:

- Thằng bội nghĩa! Ngươi dám dối gạt ta sao?

Viên Thiệu cũng giục ngựa đến đầu cầu chỉ mặt Công Tôn Toản nói:

- Hàn Phúc là đứa bất tài, tình nguyện đem Ký Châu giao cho ta, việc ấy can hệ gì đến ngươi.

Công Tôn Toản thét lên:

- Ngày trước, ta tưởng ngươi là kẻ trung nghĩa, lại con nhà dòng dõi Tam Công nên mới bầu ngươi làm Minh chủ. Ngờ đâu bây giờ ta mới biết ngươi là đồ sài lang! Ngươi còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời này nữa.

Viên Thiệu nổi giận quay lại hỏi các tướng:

- Ai dám ra bắt tên nghịch tặc ấy?

Viên Thiệu vừa dứt lời, Văn Xú đã thúc ngựa vung thương xông thẳng lên cầu. Công Tôn Toản giục ngựa tới đầu cầu giao phong chưa đầy mười hiệp đã đuối sức bỏ chạy. Văn Xú thừa thế đuổi theo. Toản chạy vào giữa trận, Xú đuổi vào tận trung quân, xung đột Ịông Tây như vào chỗ không người, khiến cho đại binh của Công Tôn Toản sợ hãi kéo nhau chạy trốn. Bốn viên tướng thủ hạ của Công Tôn Toản đổ xô ra cự chiến. Văn Xú đâm một thương khiến một tướng bị té xuống ngựa, còn ba tướng kia bỏ chạy. Xú lại đuổi theo Toản ra mãi sau trận. Toản nhìn về phía hẻm núi mà chạy, Xú thúc ngựa đuổi sát tới, nạt lớn:

- Mau xuống ngựa đầu hàng đi!

Công Tôn Toản sợ quá, chạy đến nỗi rơi hết cung tên mà không hay, cái mũ trên đầu cũng rơi xuống đất, đầu tóc tối bù, cứ phi ngựa theo chân núi mà chạy quanh. Rủi thay, con ngựa lại vấp chân ngã phục xuống, làm cho Toản lăn xuống chân núi.

Văn Xú hăm hở cầm thương tới đâm. Trong lúc tính mạng Công Tôn Toản sắp nguy, bỗng từ sau hòn đá cao có một thiếu niên dũng tướng phi ngựa ra, cầm giáo đâm Văn Xú một nhát. Văn Xú vội né mình lùi lại. Công Tôn Toản thừa dịp ấy bò lên sườn núi lánh nạn, và xem thử ai đã cứu mình.

Thì ra thiếu niên mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt. Thiếu niên đánh với Văn Xú năm, sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Lúc đó có quân bộ hạ của Toản kéo tới tiếp cứu. Văn Xú vội quay ngựa bỏ chạy. Thiếu niên đuổi theo truy kích, nhưng Công Tôn Toản đã gọi lại để tạ ơn, và hỏi tên họ.

Người ấy thi lễ rồi đáp:

- Tôi vốn người Chân Ịịnh, huyện Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tự là Tử Long, cũng là người ở địa hạt thuộc quyền Viên Thiệu, nhưng thấy Viên Thiệu không có phò vua cứu nước, nên tôi mới bỏ Thiệu đến đây tìm hầu quan Thái Thú, không ngờ lại được gặp nơi đây.

Công Tôn Toản mừng rỡ dắt Triện Vân về trại, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang khôi giáp. Hôm sau, Công Tôn Toản lại chia quân làm hai đội tả hữu, khí thế rất hùng mạnh như đôi cánh đại bàng. Có năm ngàn con ngựa thì quá nửa là ngựa trắng.

Nguyên trước kia, khi đánh nhau với rợ Khương, Toản lựa một đoàn kỵ binh cưỡi rặt ngựa trắng đi tiên phong, nổi tiếng là "Bạch Mã tướng quân". Sau nhiều trận bị Toản đánh bại, quân Khương cứ trông thấy ngựa trắng là bỏ chạy. Do đó, Toản có rất nhiều ngựa trắng.

Viên Thiệu hay tin, sai Nhan Lương, Văn Xú đi tiên phong, mỗi tướng dẫn một ngàn quân cung nỏ, cũng chia làm hai đội tả hữu, lại truyền lệnh rằng:

- Ðội bên tả cứ bắn cánh quân bên hữu của Toản, đội bên hữu thì bắn cánh quân bên tả của Toản.

Lại sai Cúc Nghĩa dẫn tám trăm quân cung thủ, hợp với một vạn năm ngàn bộ binh dàn ngay giữa trận. Còn Viên Thiệu thì tự dẫn vài vạn bộ binh theo sau tiếp ứng.

Công Tôn Toản mới thu nạp được Triệu Vân, chưa rõ tài sức ra sao, nên sai Triệu Vân dẫn một toán quân đi ứng hậu, rồi sai đại tướng Nghiêm Cương dẫn quân đi tiền đạo. Toản thì thống lãnh trung quân, dừng ngựa trên cầu, bên mình có trương một lá cờ đỏ rất lớn, thêu chữ "Soái" bằng chỉ vàng lóng lánh, bay trước mặt.

Công Tôn Toản truyền lệnh giục trống khiêu khích từ giờ Thìn qua đến giờ Tỵ, mà quân Viên Thiệu vẫn không tiến lại.

Tướng của Viên Thiệu là Cúc Nghĩa truyền quân cung nỏ phục xuống sau những tấm mộc che tên, dặn khi nào nghe tiếng pháo lệnh mới được bắn.

Bên kia, Nghiêm Cương sai đánh trống hò reo vang trời, rồi xông ra đánh Cúc Nghĩa. Quân của Nghiêm Cương đã kéo đến gần, mà quân của Cúc Nghĩa vẫn còn nằm yên không động.

Chở cho địch quân đến vừa tầm, Cúc Nghĩa mới đốt lên một tiếng pháo lệnh, tức thì tám trăm tên cung nỏ bắn ra một loạt.

Nghiêm Cương thất kinh quay về, nhưng Cúc Nghĩa đã tế ngựa theo, chém Cương một đao lăn xuống ngựa.

Quân Toản thua to, hai cánh kỵ binh tả hữu ra cứu ứng đều bị quân cung nỏ của Nhan Lương, Văn Xú chia nhau bắn như mưa. Quân Thiệu nhất tề đồng tiếng lên cầu.

Cúc Nghĩa phóng thẳng tới chém chết viên tướng vác cờ.

Lá cờ "Soái" của Toản đổ xuống. Toản thấy thế quay ngựa bỏ cầu mà chạy.

Cúc Nghĩa dẫn quân xông vào hậu quân của Toản thì gặp ngay Triệu Vân thúc ngựa xông ra cản lại.

Ðánh được vài hiệp, Triện Vân đã đâm Cúc Nghĩa một giáo chết lăn, rồi một mình một ngựa xông thẳng vào trung quân của Viên Thiệu, tả xung, hữu đột, chém giết như đi vào chỗ không người.

Công Tôn Toản thấy vậy cũng dẫn quân đánh quật trở lại, làm cho quân Viên Thiệu rối loạn, chạy tơi bời.

Bấy giờ, Viên Thiệu đang ở phía sau, sai quân đi dò trận thế, được thám mã về báo rằng Cúc Nghĩa đã chém tướng đoạt cờ, đang đuổi giết quân Toản.

Thiệu cả mừng, không phòng bị gì nữa, liền cùng Ðiền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài chục tay mã cung, cỡi ngựa ra trước quan sát. Thiệu cười ha hả bảo Công Tôn Toản là kẻ vô dụng.

Nhưng trong lúc đang cười nói, bỗng đâu Triện Vân đã phi ngựa đến trước mặt. Quân cung thủ thất kinh vội lắp tên bắn, nhưng tên chưa kịp rời nỏ thì Triện Vân đã xông vào giết một loạt bảy, tám đứa, những tên khác khiếp vía bỏ chạy. Tiếp đó, quân Công Tôn Toản lại ùn ùn kéo đến, bao vây Viên Thiệu.

Ðiền Phong thấy thế nguy, liền bảo Viên Thiệu:

- Có bức tường đằng kia, mời Chúa công mau tạm lánh vào đó chốc lác.

Viên Thiệu đưa tay trật cái mũ đâu mâu ném xuông đất, nói lớn:

- Ðại trượng phu đã lâm trận, mong được chết giữa chiến trường, há lại chạy trốn sao?

Quân binh của Viên Thiệu thấy thế nức lòng, vác kích xông đến tử chiến. Do đó, Triệu Vân không sao xông vào được. Kế đó lại có đại quân của Thiệu vừa đến kịp, lại thêm Nhan Lương cùng kéo quân tới, hai mặt cùng đánh.

Triệu Vân phải bảo hộ Công Tôn Toản phá vòng vây, rút về bên kia đầu cầu.

Quân Viên Thiệu lại thừa thế đuổi theo làm cho quân Công Tôn Toản chen nhau qua cầu mà té xuống nước chết vô số. Viên Thiệu xông lên trước, xua quân đuổi Công Tôn Toản.

Ðuổi chưa được năm dặm đường, bỗng nghe sau lưng núi có tiếng reo hò vang dậy, rồi một đạo binh hùng hổ kéo ra, đi đầu là ba viên tướng dung mạo phi thường. Thì ra đó là ba anh em Lưu Huyền Ðức.

Số là Huyền Ðức ở tại huyện Bình nguyên, nghe tin Công Tôn Toản giao binh với Viên Thiệu, nên đến trợ chiến. Bấy giờ vừa gặp lúc, ba con ngựa phi tới, ba thứ binh khí bay lại phía quân Ký Châu, nhắm thẳng Viên Thiệu mà đánh.

Thấy ba anh em Huyền Ðức xuất hiện, Viên Thiệu sợ hãi rụng rời, hồn vía tức thì bay lên mây xanh. Cây bửu đao đang cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào không hay. Thiệu vội quay ngựa chạy một mạch...

Ba quân liều chết hộ vệ Viên Thiệu qua cầu.

Công Tôn Toản thu binh về trại. Ba anh em Huyền Ðức vào hỏi thăm, Toản nói:

- Nếu không có Huyền Ðức từ xa tới cứu, thì tôi khốn đốn rồi.

Kế đó, Công Tôn Toản đem Triệu Vân đến giới thiệu với Huyền Ðức.

Vừa trông thấy viên tướng trẻ này, Huyền Ðức đã đem lòng yêu mến, và sau khi trao đổi tâm tình, hai người không muốn rời nhau nữa

Còn Viên Thiệu, sau khi thua trận ấy, đành cố thủ không dám ra binh. Công Tôn Toản cứ ít ngày lại đem binh khiêu chiến, nhưng thấy Viên Thiệu không đánh lại rút quân về.

Bây giờ, tại triều Ðồng Trác đã xếp đặt công việc tạm ổn, cho người ra ngoài thám thính, mới hay tin Viên Thiệu và Công Tôn Toản đánh nhau đã hơn một tháng trời.

LÝ Nhu nói với Ðổng Trác:

- Viên Thiệu và Công Tôn Toản đều là hào kiệt trên đời, nay ta mượn chiếu Thiên tử sai người đến giải hòa, như thế tất cả hai người mang ơn và phục tùng Thái Sư.

Ðổng Trác khen phải, liền sai quan Thái phó Mã Nhật Ðàn, và quan Thái bộc Triệu Kỳ đem chiếu mệnh ra đi.

Hai người nầy cùng qua Hà Bắc một lúc.

Viên Thiệu hay tin ra ngoài trăm dặm đón tiếp, lạy hai lạy mà vâng chiếu.

Ngày hôm sau, hai người lại đến dinh Công Tôn Toản để hiểu dụ.

Công Tôn Toản cũng bằng lòng, viết thư đưa sang Viên Thiệu giải hòa, rồi dâng biếu về triều tiến cử Lưu Huyền Ðức làm Bình Nguyên tướng.

Huyền Ðức phải sang Bình Nguyên trấn nhậm nên từ biệt Triệu Vân. Hai người cầm tay nhau nhỏ lệ, không nỡ rời.

Triệu Vân than rằng:

- Trước đây tôi tưởng Công Tôn Toản là anh hùng, nay xem lại thì Công Tôn Toản cũng chỉ thường tình như Viên Thiệu mà thôi.

Huyền Ðức nói:

- Thôi, Tử Long hãy chịu khó khuất thân nơi đây, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.

Hai người bùi ngùi giã biệt, lòng lữu luyến không nguôi.

Bấy giờ, Viên Thuật ở Nam Dương, nghe tin Viên Thiệu lấy được Ký Châu, vội sai sứ sang xin một ngàn con ngựa. Viên Thiệu không cho nên Viên Thuật oán hận, và từ đó anh em bất hòa nhau.

Viên Thuật sai sứ sang Kinh Châu vay của Lưu Biểu hai chục vạn hộc lương. Lưu Biểu cũng không cho, nên Viên Thuật căm giận ngầm sai người mang thư cho Tôn Kiên, xúi Tôn Kiên đánh Lưu Biểu.

Ðại lược lá thư ấy như sau:

Trước đây, Lưu Biểu chận đường đánh ngày, chính là do kế của anh Bản Sơ tôi. Này tôi lại nghe tin anh Bản Sơ tôi ngầm mưu với Lưu Biểu muốn cùng đánh chiếm Giang Ðông của ông đấy. Vậy ông kíp khởi binh đánh Lưu Biểu. Tôi sẽ giúp ông mà đánh chẹn Bản Sơ. Như thế sẽ báo được hai mối thù. Và, ông chiếm lấy Kinh Châu, tôi chiếm lấy Ký Châu. Xin chờ ông chại ngại...

Tôn Kiên được thư liền nói:

- Căm hận thay! Thằng Lưu Biểu trước đây dám chẹn đường về của ta. Nay không nhân cơ hội này mà rửa hận thì còn đợi đến bao giờ nữa.

Liền tập họn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàng Dương dưới trướng để bàn luận. Trình Phổ nói:

- Viên Thuật là đứa dối trá, không nên tin vội.

Tôn Kiên nói:

- Không cần! Ta muốn đánh Lưu Biểu một trận báo thù, dẫu Viên Thuật không giúp sức cũng được.

Bàn định xong, Tôn Kiên sai Hoàng Cái ra bến sông, sắp đặt chiến thuyền, trang bị khí giới, tích lũy lương thảo, lựa những thuyền thật lớn để chở ngựa, sắp sẵn để bất thần khởi quân.

Quân tế tác Kinh Châu hay được vội về báo với Lưu Biểu. Lưu Biểu sợ hãi triệu tập chư tướng bàn kế. Khoái Lương nói:

- Việc này không đáng lo, chỉ cần sai Hoàng Tổ đem quân phục ở Giang Hạ làm tiền khu, rồi Chúa công thân hành dẫn đại binh Kinh tương đi làm hậu viện. Chờ cho quân Tôn Kiên mới qua sông mỏi mệt, đánh cho một trận tất quân giặc phải bị thua.

Lưu Biểu nghe theo và ra lệnh cho Hoàng Tổ phòng bị ở Giang Hạ, rồi kéo đại binh sắp đặt ứng chiến...

Lại nói về Tôn Kiên vốn có bốn người con trai do Ngô phu nhân sinh ra. Con trưởng tên Sách, tự Bá Phù. Người thứ hai tên Quyền tự là Trọng Mưu. Người thứ ba tên Dực, tự là Thúc Bật. Người thứ tư tên Khuông, tự là QuÝ Tá. Còn người em gái của Ngô phu nhân lại cũng lấy anh rể, tức là vợ thứ của Tôn Kiên. Bà này sinh được một trai một gái. Trai tên là Lãng tự Tảo An, gái là Nhân. Tôn Kiên lại còn nuôi một người con trai họ Du, tên Thiều tự Công Lễ, tức là nghĩa tử Tôn Thiền vậy.

Bấy giời, người em ruột của Tôn Kiên là Tôn Tĩnh, tự Ẩu Ðài, thấy anh mình sắp xuất quân, mới dắt cả các con mình ra vái lạy trước ngựa nà can ngăn khuyên giải:

- Nay Ðổng Trác chuyên quyền, Thiên tử nhu nhược, nhân dân loạn lạc, các trấn chư hầu mỗi người làm bá một phương. Giang Ðông ta mới yên được ít lâu, theo lẽ phải củng cố binh lực, sao anh lại vì một chút giận nhỏ mà động binh? Xin anh xét lại.

Tôn Kiên bảo Tôn Tĩnh

- Thôi, em đừng ngăn cản. Anh đang muốn tung hoành khắp thiên hạ, lẽ nào một mối thù nhỏ mà không báo?

Con trưởng Tôn Kiên là Tôn Sách nói:

- Phụ thân đã quyết đi, con xin cùng đi với.

Tôn Kiên nhận lời, dẫn Tôn Sách lên thuyền kép quân đến đánh Phàn thành. Bấy giờ, Hoàng Tổ đã phục sẵn cung nỏ ở bờ sông, thấy chiến thuyền của Tôn Kiên kéo đến, liền ra lệnh bắn như mưa.

Tôn Kiên truyền cho quân sĩ không được vội động, cứ phục sát xuống thuyền, rồi cho thuyền chèo lui để dụ địch, đồng thời đánh trống thị uy ba ngày liền.

Cứ mỗi ngày thuyền Tôn Kiên lại lượn sát vào bờ, rồi lùi ra xa.

Quân của Hoàng Tổ cứ nhắm mắt bắn càn, bắn đến nỗi hết sạch cả tên.

Bấy giờ Tôn Kiên mới ra lệnh thu nhặt số tên của địch bắn dính hai bên ven thuyền, ước độ vài chục vạn mũi. Ngày hôm sau, gặp chiều gió thuận, Tôn Kiên sai bắn lên bờ như mưa.

Quân trên bờ đã hết tên, lại bị phản công bất ngờ nên ùn ùn bỏ chạy.

Tôn Kiên kéo quân lên bờ. Trình Phổ, Hoàng Cái chi ra hai đường đánh thốc vào trại Hoàng Thổ, mặt sau, Hàn Ðương cũng kéo tới nơi. Thế là ba mặt đánh dồn lại.

Hoàng Tổ thua to, đành bỏ Phàn thành chạy về Ðặng thành.

Tôn Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ các chiến thuyền, còn mình thì thân hành kéo quân truy kích địch.

Hoàng Tổ bị Tôn Kiên đuổi theo quá gấp, phải dùng lại bày trận giữa cách đồng, để nghênh địch.

Tôn Kiên cũng dàn quân thành trận thế, thúc ngựa ra đứng dước cờ.

Tôn Sách, toàn thân khôi giáp gọn ghẽ, cầm giáo đứng sát bên cha.

Bên kia, Hoàng Tổ dẫn hai tướng ra trận. Một tướng là Trương Hổ, người Giang Hạ; một tướng là Trần Sinh, người Tương Dương. Hoàng Tổ đứng ở giữa, tay cầm roi trỏ Tôn Kiên mắng lớn:

- Lũ chuột Giang Ðông ! Sao dám xâm phạm đất đai của bậc tôn thân nhà Hán?

Mắng rồi sai Trương Hổ ra đánh. Bên kia Hàn Ðương từ trong trận phi ngựa ra đón lại. Hai tướng đánh nhau đến ba mươi hiệp.

Trần Sinh thấy Trương Hổ có vẻ đuối sức, liền phi ngựa ra trợ chiến.

Tôn Sách thấy thế, vội cặp ngọn giáo và nách, giương cung bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa mặt Trần Sinh.

Trần Sinh té nhào xuống ngựa.

Trương Hổ thấy Trần Sinh bị chết một cách độc ngột như vậy, tay chân bủn rủn, bị Hàn Ðương chém một đao bay nửa cái sọ, óc văng ra ngoài.

Thắng thế, Trình Phổ vội tế ngựa sang trận địch, định bắt sống Hoàng Tổ.

Hoàng Tổ không còn tâm trí nào đề nghĩ cánh chống đỡ, vội bở bỏ mũ, bỏ luôn cả ngựa, lẫn trốn vào đám tàn quân tẩu thoát.

Tôn Kiên xua quân chém giết, đuổi đến tận bò sông Hán thủy rồi truyền lệnh gọi Hoàng Cái đem chiến thuyền lên đống ở bến Hán giang, còn Tôn Kiên thì tiếp tục đánh Kinh Tương

Hoàng Tổ thâu thập tàn quân, đến ra mắ Lưu Biểu, nói rõ thế quân của Tôn Kiên mạnh lắm, không sao cự nổi. Lưu Biểu lo sợ, cho triệu Khoái Lương vào bàn. Khoái Lương nói:

- Ta vừa bị thua một trận, quân sĩ đã nản lòng. Vậy chỉ nên đào hào sâu đáp lũy cao cố thủ để tránh mũi giặc, rồi ngầm sai người qua Ký Châu để cầu cứu Viên Bản Sơ giải vây mới được.

Thái Mạo nói:

- Khoái Tử Nhu bàn kế như vậy không xong! Quân giặc nay đã đên sát chân thành mà còn đợi quân cầu cứu, chẳng lẽ chúng ta chờ chết hay sao? Tôi tuy bất tài cũng xinh lãnh binh khai thành quyết một trận tử chiến.

Lưu Biểu thuận lời, Thái Mạo dẫn hơn một vạn quân ra khỏi thành Tương dương, kéo tới chân núi Hiệp sơn bày trận.

Tôn Kiên kéo quân đắc thắng ồ ạt tiến đến. Thấy Thái Mạo cầm quân, Tôn Kiên chỉ vào mặt Thái Mạo nói với các tướng:

- Thằng kia là anh ruột người vợ kế của Lưu Biểu đấy! Ai ra bắt nó cho ta?

Trình Phổ liền vung cây thiết quyền xà mâu đến đánh Thái Mạo.

Thái Mạo mới chỉ đánh đỡ vài hiệp đã đuối sức, quay ngựa chạy dài.

Tôn Kiên xua quân đuổi theo giết quân Kinh tương tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang đầy đồng.

Thái Mạo chạy thoát vào thành Tương Dương đóng cửa, không dám nói đến chuyện giao binh.

Khái Lương nói với Lưu Biểu:

- Thái Mạo không nghe lời phải, khiến cho quân đại bại, nay phải chiếu quân luật mà chém đầu làm lệnh.

Lưu Biểu vì mới cưới em gái Thái Mạo, không nỡ gia hình nên bỏ qua việc ấy.

Tôn Kiên kéo quân đến Tương dươntg liền chia quân vây chặct bốn cửa thành, đánh phá dữ dội.

Trong thành cố thủ không ai dám ra đánh.

Bỗng một hôm có trận gió lốc thổi đến làm gãy ngọn cờ "Súy" ở trung quân.

Hàn Ðương thất kinh nói với Tôn Kiên:

-Gãy cờ là điềm chẳng làm, xin Chúa công hãy tạm ban sư.

Tôn Kiên nói:

- Ta đánh trận nào thắng trận ấy, thành Tương dương chỉ sớm tối về tay ta, há vì chuyện gãy cờ mà thu quân sao?

Rồi chẳng nghe lời Hàn Ðương, và thúc quân phá thành càng gấp.

Lúc ấy, ở trong thành, Khoái Lương cũng đang bàn với Lưu Biểu:

- Ðêm qua tôi xem thiên văn thấy một vì tướng tinh sắp sa xuống. Cứ theo phận dã mà đoán thì vì sao ấy ứng vào Tôn Kiên. Vậy Chúa công nên gấp rút viết thư sang cầu cứu Viên Bản Sơ đi.

Lưu Biểu theo lời viết thư sang cầu cứu Viên Thiệu. Nhưng việc phá vòng vây đem thư ra ngoài là việc khó.

Lưu Biểu hỏi các tướng:

- Ai dám xông ra vòng vây địch đem thư nầy đến Ký Châu?

Có một viên kiện tướng là Lữ Công xin lãnh việc ấy. Khoái Lương bảo Lữ Công:

- Ngươi đã có gan đi thì hãy nghe kế của tay đây: Ngươi hãy lựa năm trăm quân thiện xạ, khi ra lọt vòng vây rồi phải chạy ngay đến núi Hiện sơn mà mai phục. Quân giặc thế nào cũng đuổi theo. Ngươi chia một trăm người lên núi tìm những hòn đá dự bị trên cao, một trăm người khác cầm cung tên vào phục trong rừng. Quân giặc đuổi đến nơi, ngươi chớ chạy thẳng mà phải kéo ba trăm quân chạy quanh co, loanh quanh chân núi, để dẫn giặc vào chỗ có mai phục, cho cung tên bắn ra, đá núi tống xuống. Thắng giặc thì đốt pháo liên châu làm hiệu để trong thành đánh ra tiếp ứng. Nếu giặc không đuổi thì đừng đốt pháo, cứ việc lên đường qua Ký Châu. Ðêm nay chắc trăng không sáng lắm đâu. Ðợi lúc nhá nhem tối ngươi dẫn quân ra khỏi thành là vừa.

Lữ Công lãnh kế, sắp sẵn binh mã, chờ lúc trời sẫm tối bí mật mở cửa Ðông kéo ra. Bấy giờ Tôn Kiên đang ngồi trong trướng, bỗng nghe có tiếng quân mã di động, vội lên ngựa dẫn ba mươi tên quân kỵ ra khỏi trại để xem xét. Quân thám mã lại đến báo:

- Có một toán quân từ trong thành vừa thoát ra đang chạy thẳng về phía chân núi.

Tôn Kiên sợ bỏ lỡ cơ hội, vội vã tức tốc đuổi theo, không kịp gọi thêm tướng sĩ, chỉ đem có ba mươi tên quân kỵ có sẵn tới đấy.

Lữ Công bấy giờ đã chia quân lên núi và vào rừng mai phục... Tôn Kiên phóng ngựa chạy quá nhanh, nên chỉ chốc lát đã bỏ xa hẳn ba mươi tên quân kỵ lại phía sau. Thấy đằng trước quân giặc không còn cách bao xa, Tôn Kiên hét lớn:

- Muốn sống thì dừng lại!

Lữ Công quay ngựa lại đánh. Nhưng chỉ đánh được một hiệp, Công lại bỏ chạy, lẻn vào trong đường núi quanh co mà trốn.

Tôn Kiên cứ đuổi theo mãi, nhưng khi đến sau núi thì còn thấy Lữ Công đâu nữa. Kiên toan trèo lên núi nhìn xem thì bỗng đâu một hồi cồng nổi lên vang dậy.

Tức thì đá trên núi ném xuống như mưa và tên trong rừng bắn ra như châu chấu.

Than ôi Tôn Kiên! Thân thể bị tên, đá bắn loạn, đầu vỡ phọc óc, một người một ngựa chết ở chân núi. Năm ấy Tôn Kiên mới ba mươi bảy tuổi.

Lữ Công xuống chặn được cả ba mươi lính kỵ mã của Tôn Kiên, liền đánh giết hết, rồi nổi pháo hiệu.

Trong thành nghe tiếng pháo, Khoái Việt, Hoàng Tổ, Thái Mạo mở cửa thành, chia làm ba đạo quân đánh ra.

Quân sĩ Giang Ðông náo loạn, không biết đường nào mà chạy.

Hoàng Cái đang giữ thuyền nới mé sông, nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, vội dẫn quân kéo lên bờ gặp ngay Hoàng Tổ.

Mới đánh được vài hiệp, Hoàng Cái đã bắt sống được Hoàng Tổ.

Còn Trình Phổ thấy loạn liền hộ vệ tiểu chủ Tôn Sách tìm đường chạy.

Vừa ra khỏi trại gặp ngay Lữ Công, Trình Phổ tế ngựa lại đánh nhau với Công.

Cũng chỉ vài hiệp, Phổ đã đâm Công một xà mâu chết lăn xuống ngựa.

Hai bên đánh nhau đến trời sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu kéo vào thành.

Còn quân Giang Ðông kéo về Hán thủy.

Bấy giờ, Tôn Sách mới biết tin cha đã chết vì loạn tên, mà thi thể bị quân Kinh châu khiêng vào thành mất. Sách bèn khóc rống lên rất thảm thiết.

Các tướng sĩ cũng đều rơi lệ. Trình Phổ đến khuyên giải, Tôn Sách gạt lệ hỏi chư tướng:

- Bây giờ biết làm cách nào để lấy được thi thể của phụ thân ta đem về cố quận?

Hoàng Cái nói:

- Tôi có bắt dược Hoàng Tổ đây, nên cho một người vào thành giảng hòa với Lưu Biểu, và hẹn đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể Chúa công.

Cái vừa dứt lời, thì viên Quân lại là Hoàn Khải bước ra thưa:

- Trước đây tôi có quen biết với Lưu Biểu, nay xin lãnh việc nầy đi sứ vào thành.

Tôn Sách bằng lòng. Hoàn Khải vào thành ra mắt Lưu Biểu nói rõ việc giảng hòa và trao đổi.

Lưu Biểu nói:

- Thi hài Văn Ðài ta đã cho tẩm liệm tử tế, bỏ vào áo quan rồi. Ngươi về bảo đem Hoàng Tổ đến đây, rồi hai nhà cùng bãi binh, từ nay không xâm phạm bờ cõi nhau nữa.

Hoàng Khải bái tớ ra về, nhưng vừa bước xuống thềm, bỗng có Khoái Lương chạy đến can Lưu Biểu rối rít:

- Không nên! Không nên hòa! Tôi đã có kế lấy Giang Ðông rồi. Xin hãy chém đầu Hoàn Khải trước, rồi sau hãy dụng kế của tôi.

Ðó chính là

Ðuổi địch Tôn Kiên vừa uổng mạng,

Cầu hòa Hoàn Khải lại lâm nguy.
HỒI 8
Vương Tư Ðồ Khéo Dụng Liên Hoàn Kế.

Ðổng Thừa Tướng Náo Lộng Phượng Nghi Ðình.

Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng:

- Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé, nên thừa thế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Ðông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khỏe, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy!

Biểu nói:

- Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được?

Lương nói:

- Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Ðông, việc gì mà còn phải cân nhắc?

Biểu lại nói:

- Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa.

Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên nầy cho đem xác Tôn Kiên về.

Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu cha về, rút quân về Giang Ðông, táng cha ở gò Khúc A.

Việc tang xong, Tôn Sách dẫn quân về Giang Ðông với người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Ðổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng:

- Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng!

Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ, khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Ðổng Mẫn làm Tả tướng quân, tước vu hầu; cháu là Ðổng Hoành làm Thị Trung, coi cả quân cấm binh. Tôn tộc họ Ðổng chẳng cử già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả.

Cách Trường An 250 dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là My , bắt hai mươi lăm vạn dân phu đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu chất vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành.

Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn.

Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc.

Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất.

Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không.

Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bá quan, ngồi sắp ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lữ Bố đi tắt vào, ghé vào tai Ðổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng:

- Ạ ra thế!

Nói rồi sai Lữ Bố lôi quan Tư Không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Ðổng Trác cười nói:

- Các quan đừng sợ. Trương Ôn kết liên với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn Hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ.

Các quan dạ dạ rồi lui về.

Quan Tư Ðồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Ðến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời, mà khóc.

Chợt nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Ðơn. Doãn rón rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Ðiêu Thuyền.

Ðiêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng:

- Con này đã có tư tình gì đây?

Thuyền quỳ xuống thưa rằng:

- Lạy cha, con đâu có dám tư tình.

Doãn hỏi:

- Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài?

Thuyền nói:

- Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng

Doãn nói:

- Con không được giấu giếm, phải nói cho thực.

Thuyền nói:

- Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không ngại.

Doãn đập gậy xuống đất nói rằng:

- Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo!

Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Ðiêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy.

Ðiêu Thuyền sợ hãi, cuối rạp xuống đất, thưa rằng:

- Sao cha lại làm thế?

Doãn nói:

- Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán!

Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa:

- Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ.

Doãn lại quỳ xuống nói:

- Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Ðổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Ðổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố, sức khỏe lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Ðổng Trác. Con ở trong, tùy cơ lập kế, ly gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho Lữ Bố giết Ðổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Ðó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào?

Ðiêu Thuyền thưa:

- Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ lập mưu ở trong.

Doãn nói:

- Việc nầy nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết!

Thuyền thưa rằng:

- Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn ngọn giáo.

Doãn lạy tạ.

Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố.

Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.

Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên.

Bố nói:

- Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Ðồ là là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy?

Doãn nói:

- Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó.

Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Ðổng Thái Sư và cái tài Lữ Bố.

Bố cười vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tạ lui ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng:

- Gọi con em nó ra đây!

Một lát hai thị tỳ đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lữ Bố trông thấy giật mình, hỏi:

- Người nào vậy?

Doãn nói:

- Ðó là con gái nhỏ của lão, tên là Ðiêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.

Liền sai Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời.

Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt.

Vương Doãn giả tảng say, nói:

- Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy.

Bố mời Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói:

- Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.

Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn.

Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén.

Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng:

- Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không?

Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng:

- Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.

Doãn nói:

- Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.

Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền.

Ðiêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại.

Một chốc tiệc tan, Doãn nói:

- Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái Sư sinh nghi.

Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.

Ðược vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Ðổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng:

- Tôi muốn rước Thái Sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái Sư có lòng hạ cố chăng?

Trác nói:

- Ðược quan Tư Ðồ mời, tôi xin đến ngay.

Doãn lạy tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị; giữa gian sảnh, kê một cái sạp : gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn che.

Buổi trưa hôm sau, Ðổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào.

Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh.

Doãn nói:

- Công đức Thái Sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng!

Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Ðến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng:

- Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái Sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm.

Trác nói:

- Ta có đâu dám mong như thế!

Doãn nói:

- Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng.

Trác cười và nói rằng:

- Nếu mệnh trời về ta, Tư Ðồ phải làm nguyên huân.

Doãn lại tạ.

Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn.

Doãn nói:

- Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái Sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái Sư cho phép được gọi ra hầu.

Trác nói:

- Hay lắm!

Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Ðiêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục.

Có bài ca khen Ðiêu Thuyền như sau:

Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ

Cánh hồng bay phớn phở trên tay

Ðộng Ðình chừng đã qua bay.

Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giầy gót sen

Một cành gió tả hoa mềm

Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân

Lại có một bài thơ nữa khen rằng:

Én liệng la đà nhịp phách ngà,

Mây bay một áng diễu thềm hoa.

Mày ngài gợi khách sầu man mác.

Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha,

Hồ dễ ngàn vàng mua được miệng,

Lọ cùng trăm báu xức vào da?

Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm

Nào biết Tương vương mấy kẻ là!

Ðiêu Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần.

Ðiêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy.

Trác thấy Ðiêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn:

- Con bé nầy là thế nào?

Vương Doãn thưa:

- Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Ðiêu Thuyền.

Trác hỏi:

- Biết hát không?

Doãn sai Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.

Thật là:

Môi son hé nở cánh đào tân

Ngọc trắng hai hàng nhả ánh xuân

Ðầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc

Rắp toan chém cổ kẻ gian thần!

Ðổng Trác khen nức nở.

Doãn sai Thuyền dâng rượu.

Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng:

- Xuân xanh năm nay bao nhiêu?

Thuyền thưa:

- Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám.

Trác cười nói rằng:

- Thật là người chốn thần tiên!

Doãn đứng dậy thưa rằng:

- Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không.

Ðổng Trác nói:

- Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại.

Doãn nói:

- Nếu nó được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm.

Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.

Doãn cưỡi ngựa về đến xấp nữa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng:

- Tư Ðồ đã gả Ðiêu Thuyền cho ta, nay lại đem Ðiêu Thuyền dâng cho Thái Sư, sao lại đùa như thế?

Doãn vội vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng:

- Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.

Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói:

- Sao tướng quân lại trách lão?

Bố nói:

- Có người nói vại ta rằng Tư Ðồ dùng xe đưa Ðiêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao?

Doãn thưa:

- Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều, Thái Sư bảo tôi rằng:

-Ta có một việc phải đến nhà ngươi.

Vậy tôi mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp.

Trong khi uống rượu, Thái Sư hỏi:

-Ta nghe ngươi có con gái tên là Ðiêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Ðem con lão ra đây cho ta coi!

Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Ðiêu Thuyền ra lạy bố chồng.

Thái Sư lại truyền rằng:

-Hôm nay tốt ngày, để ta đem Ðiêu Thuyền về cho Phụng Tiên!

Tướng quân thử nghĩ xem: Thái Sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở!

Lữ Bố nói:

- Quan Tư Ðồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội.

Doãn lại nói:

- Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến.

Lữ Bố tạ, rồi về.

Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu.

Một người thưa:

- Ðêm qua Thái Sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy.

Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Ðổng Trác để dò xem.

Bấy giờ Ðiêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố, Ðiêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt.

Lữ Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào.

Ðổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng:

- Ở ngoài không có việc gì chứ?

Bố thưa:

- Không.

Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Bố biết là Ðiêu Thuyền, tâm thần mê mẩn.

Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền bảo rằng:

- Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra!

Lữ Bố bực tức trở ra.

Trác từ khi được Ðiêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Ðiêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa.

Một hôm Lữ Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Ðổng Trác đang ngủ, Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Ðổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt.

Bố cảm thấy ruột như nát ra.

Trác nằm, hai mắt lim dim, thấy Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng:

- Mày ghẹo vợ yêu của tao à?

Bèn sai tả hữu đuổi Lữ Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong.

Lữ Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi.

Nho lập tức vào ra mắt Ðổng Trác, nói rằng:

- Thái Sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất.

Trác hỏi:

- Bây giờ nên làm thế nào?

Nho nói:

- Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa.

Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lữ Bố vào nhà trong bảo rằng:

- Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng.

Nói rồi, sai đưa cho Lữ Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm.

Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Ðổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Ðiêu Thuyền.

Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo.

Một bửa, Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Ðế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Ðiêu Thuyền.

Thuyền bảo:

- Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp!

Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Ðiêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng.

Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng:

- Tiện thiếp tuy không phải Vương Tư Ðồ sinh ra, nhưng Tư Ðồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu Thái Sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giả lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp!

Ðiêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.

Lữ Bố vội vàng ôm ngay lấy Ðiêu Thuyền, khóc nói rằng:

- Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi!

Ðiêu Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng:

- Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau!

Lữ Bố nói:

- Nếu kiếp nầy không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.

Ðiêu Thuyền nói:

- Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.

Bố nói:

- Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.

Thuyền lôi vớt áo Lữ Bố lại nói rằng:

- Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa!

Bố dừng lại nói rằng:

- Ðừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã.

Nói rồi vác kích định đi ra.

Ðiêu Thuyền níu lại nói rằng:

- Khi tôi ở chốn buồng đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lới chịu dưới quyền áp chế của người khác!

Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa.

Lữ Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Ðiêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra.

Ðổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói:

- Ôn Hầu vào nhà sau.

Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi Ðiêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa:

- Ðiêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.

Trác vào vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Ðiêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên Ðình Phượng Nghi, họa kích dựng một bên.

Trác giận quát to một tiếng.

Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.

Trác vớ ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Ðổng Trác. Trác ngã quay xuống đất.

Thế rõ thực là:

Khi căm xông thẳng trên mây tía.

Mình béo lăn kền đến đất đen.

Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ.
HỒI 9
Trừ Hung Bạo, Lữ Bố Giúp Tư Ðồ

Chiếm Trường An, Lý Thôi Nghe Giả Hủ.

Người đi va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho.

Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.

Trác hỏi Lý Nho:

- Ngươi đến đây làm gì?

Lý Nho thưa:

- Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư giết ta. Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội chết!

Trác nói:

- Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết hắn mới nghe.

Lý Nho can rằng:

- Thái Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc "Dứt dải mũ" đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại.

Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng:

- Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem.

Lý Nho từ tạ rồi ra.

Trác vào ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng:

- Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố?

Ðiêu Thuyền khóc thưa rằng:

- Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thiếp đến Ðình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh.

Trác lại hỏi:

- Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không?

Ðiêu Thuyền giật mình, khóc rằng:

- Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này!

Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.

Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng:

- Ta nói bỡn đấy mà!

Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng:

- Ðây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra.

Trác nói:

- Ta sao nỡ bỏ nàng.

Ðiêu Thuyền lại nói:

- Thái Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại.

Trác dỗ dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng:

- Ngày mai chúng ta về My , cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa.

Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ.

Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng:

- Hôm nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố.

Trác nói:

- Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi!

Nho nói:

- Thái Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.

Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng:

- Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu.

Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:

- Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà!

Ðời sau có thơ rằng:

Tư Ðồ khéo mượn khách má đào,

Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao

Hổ Lao ba trận hoài bao sức,

Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao!

Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My , trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe.

Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm.

Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng:

- Ôn Hầu sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở?

Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn.

Chào hỏi xong, Doãn nói:

- Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay Thái Sư về My , nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than?

Bố nói:

- Chỉ vì con gái ông đấy!

Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng:

- Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à?

Bố nói:

- Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi!

Doãn lại giả cách thất kinh:

- Không ngờ lại như thế!

Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng:

- Không ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy...

Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng:

- Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.

Bố theo Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.

Bố lại đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe.

Doãn nói:

- Thái Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.

Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.

Doãn vội vàng nói rằng:

- Lão trót lỡ lời... xin tướng quân nguôi giận!

Bố nói:

- Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.

Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng:

- Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão.

Bố nói:

- Ðại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru!

Doãn nói thêm một câu rằng:

- Tài như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được.

Bố lại nói:

- Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng?

Doãn tủm tỉm cười nói rằng:

- Tướng quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không?

Bố hăng hái đứng lên nói rằng:

- Nếu Tư Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.

Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng:

- Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.

Bố đứng dậy lạy Vương Doãn nói rằng:

- Ý tôi đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa.

Doãn nói:

- Tôi sợ việc không xong thì vạ to.

Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề.

Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng:

- Hương hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết.

Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra.

Doãn lập tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy.

Thụy nói:

- Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.

Uyển nói:

- Nhưng có ai dám đi mời không?

Thụy nói:

- Có quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ

Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc.

Bố nói:

- Ngày xưa xui ta giết Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước.

Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc:

- Xưa ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào?

Túc nói:

- Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?

Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề.

Doãn nói:

- Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.

Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My , sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói:

- Thiên tử có chiếu gì?

Túc thưa:

- Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.

Trác hỏi:

- Ý Vương Doãn thế nào?

Túc thưa:

- Vương Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về.

Trác mừng rỡ nói rằng:

- Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ.

Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh.

Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc:

- Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô.

Túc lạy tạ, xưng thần.

Trác vào từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác:

- Con đi đâu?

Trác nói:

- Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy.

Mẹ Trác nói:

- Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay!

Trác nói:

- Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình!

Nói rồi từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng:

- Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.

Ðiêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.

Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.

Trác hỏi Lý Túc:

- Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào?

Túc nói:

- Thế là cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng.

Trác nghe lấy làm lọt tai.

Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc:

- Thế là điềm gì?

Túc nói:

- Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời.

Trác lại mừng không lo gì nữa.

Khi Ðổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón.

Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng.

Trác nói:

- Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.

Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.

Ðêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn.

Hát rằng:

Thiên lý thảo

Hà thanh thanh

Thập nhật bốc

Bất đắc sinh!

(Cỏ ngàn dặm

Sao xanh xanh?

Trên mười ngày

Chẳng được sống)

Tiếng hát nghe thực ai oán.

Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc:

- Trẻ hát như thế, hay dở thế nào?

Túc thưa:

- Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên.

Mờ mờ sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu .

Trác lại hỏi Lý Túc:

- Người ấy là người thế nào?

Túc nói:

- Hắn là một thằng rồ.

Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.

Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào.

Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc:

- Họ cầm kiếm là ý gì?

LÝ Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.

Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng:

- Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?

Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng:

- Con ta Phụng Tiên đâu?

Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng:

- Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này!

Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên.

Lữ Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng:

- Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả!

Các tướng sĩ đều reo:

- Vạn tuế!

Ðời sau có thơ rằng:

Bá nghiệp thành công hóa đế vương

Không thành cũng vẫn được giàu sang

Ai biết lòng trời không thiên vị

My thành ra đất nát hoang.

Lữ Bố lại hô lên rằng:

- Giúp Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta?

Lý Túc xin đi.

Chợt có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng:

- Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp.

Vương Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết.

Thây Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây.

Vương Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản.

Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My , liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu.

Lữ Bố đến My , trước hết tìm Ðiêu Thuyền.

Hoàn Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Ðổng Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng, vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo với Vương Doãn biết.

Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng.

Ðang ăn bỗng có người vào báo rằng:

- Thây Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên.

Doãn giận lắm, quát rằng:

- Giết được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi?

Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức giận nói:

- Nay trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao?

Ung xin nhận tội nói rằng:

- Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: nếu bị thích chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá!

Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng:

- Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ.

Doãn nói:

- Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười.

Mã Nhật Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng:

- Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được?

Doãn không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết.

Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc.

Người đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm.

Có thơ than Ung rằng:

Ðổng Trác chuyên quyền thật bất nhân

Ung sao rước lấy vạ vào thân?

Bấy giờ Gia Cát nằm trong núi

Ðâu chịu ra thờ kẻ loạn thần?

Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tha tội.

Vương Doãn nói:

- Ðổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy không thể tha được.

Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói:

- Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong!

Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng:

- Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn.

Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng:

- Vương Doãn muốn giết sạch cả người ở Tây Lương.

Dân chúng đều sợ hãi.

Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng:

- Chịu chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không?

Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ.

Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau.

Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói:

- Tư Ðồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột!

Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận.

Phụ chống không nổi, thua chạy.

Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng:

- Sao ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta?

Nói rồi liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân.

Hôm sau Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng:

- Lữ Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi.

Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố.

Bố hỏi đầu đuôi, người đi theo khai rằng:

- Xích Nhi giết Phụ để lấy của.

Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi.

Lữ Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại.

Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng:

- Lữ Bố tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua.

Mọi người dùng kế ấy.

Lữ Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có người báo rằng:

- Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại.

Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng:

- Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm!

Bố vội vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm.

Vài hôm sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo rằng:

- Thế nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác.

Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng:

- May ra nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính việc nước.

Lữ Bố hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi.

Ðược một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật.

Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước.

Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế.

Vua Hiến Ðế đứng trên lầu hỏi rằng:

- Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì?

Thôi, Dĩ ngẫng lên tâu rằng:

- Muôn tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay.

Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng:

- Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc.

Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng:

- Vương Doãn đây!

Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng:

- Ðổng Thái Sư có tội tình gì mà ngươi giết?

Doãn nói:

- Tội Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à?

Thôi, Dĩ lại hỏi rằng:

- Ừ, Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không được?

Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng:

- Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi.

Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu.

Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng:

Vương Doãn bày mưu hay,

Gian thần bị giết ngay.

Thương dân nên tức ruột,

Xót nước lại chau mày.

Sao tỏ, lòng trung giãi.

Mây cao, khí nghĩa đầy.

Ðến nay hồn vía ấy,

Quanh quất Phượng Lâu này.

Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch.

Sĩ dân ai nấy đều thương khóc.

Lý, Quách lại bàn nhau rằng:

- Ðã đến thế nầy, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ?

Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung.

Thế rõ thực:

Ðầu sỏ tạ tội, tai nạn hết

Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy.

Chưa biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

» Next trang 3

Doc truyen online mien phi moi nhat hay nhat - KenhTruyen.Hexat.Com

Copyright © 2018 KenhTruyen.Hexat.Com - All rights reserved.
Wapsite Đọc Truyện online được tổng hợp từ nhiều nguồn trên internet.
Được phát triển bởi Trái Tim Băng™ và tất cả các thành viên.