XtGem Forum catalog
Đọc truyện
Truyện Teen | Ngôn Tình | Xuyên Không | Tiểu Thuyết
Truyen teen - Thành phố không mặt người phần cuối
22. Thằng Hắc Quẩy

Truyện ngắn của Nguyễn Tiến Bình

Tới giờ cũng chẳng ai biết nó tên gì, trong xóm ai cũng gọi nó là thằng Hắc Quẩy. Hắc là đen, quẩy hình như là quỷ. Thằng quỷ, không biết có phải vậy không. Nếu đúng, cái tên có vẻ hợp với con người của nó. Đen thui và phá như… quỷ. Nhà tôi ở đầu hẻm, còn đi sâu vô trong, đến tận cùng, con hẻm teo lại chỉ đủ một người lách qua là tới nhà nó. Lúc mới biết nó từ nhỏ cho đến lớn, không khi nào thấy nó mặc áo, chỉ độc cái quần đùi dơ như nùi giẻ lau xe, mình mẩy mốc thếch. Nhà tám anh chị em, ba nó còng lưng đạp xích lô, mà lại có vợ nhỏ, nghe đâu là mối quen ở tuốt Hóc môn lên bán rau. Mẹ nó buổi sáng chăn dắt lũ con, buổi chiều dắt hai đứa lớn ra chợ nhỏ phụ dọn hàng, dẹp sạp kiếm bữa rau, bữa cháo. Đêm hôm đó, mẹ nó ngủ rồi đi luôn. Sáng ra, chị nó kêu hoài không dậy, đến khi cầm chân định lay, thấy đã lạnh ngắt. Chắc bà đuối sức, chịu hết nổi chuyện chồng con. Đám tang xong, ba nó lấy chiếc xích lô đi luôn không thấy quay lại. Chị nó nói: “Ổng theo vợ nhỏ”. Từ đó, chị nó thay mẹ lo cho hai đứa nhỏ nhất. Tốp năm đứa khúc giữa, trong đó có nó bắt đầu tự bò ra khỏi “hang” để kiếm ăn. Ban đầu nó chỉ loanh quanh cái chợ nhỏ, hết đẩy xe, khiêng vác, lượm mót… tất cả mọi thứ, miễn là có thể nhai và nuốt được. Lần hồi, thằng Hắc Quẩy phát hiện thiên hạ đối xử với nó khốn nạn quá, la, chửi, đánh đập, trả công như bố thí. Đời “dạy” nó cách tồn tại, nó không thèm làm công cho ai nữa, bắt đầu chôm chỉa, móc túi, đá cá, lăn dưa, mặc ấy đứa em lo sợ. Chỉ thời gian ngắn, tay nghề “hai ngón” của thằng Hắc Quẩy “nổi tiếng khắp chợ. Vừa thấy bóng nó, cả chợ như sôi lên, tiếng kêu í ới , tiếng kéo đồ, tiếng chửi, tiếng xua đuổi ầm ỉ. Nó lảng mất, lúc ẩn, lúc hiện. Cuối cùng cũng có người kêu mất đồ. Cả chợ phải hùn tiền thuê một ông già tay đeo băng đỏ làm bảo vệ chỉ với một chuyện là canh chừng nó. Ông già làm việc nhiệt tình quá, hết kiếm ăn được ở chợ, nó bắt đầu chuyển địa bàn và phương thức hoạt động. Suốt ngày nó lang thang hết ngõ này đến hẻm nọ, ai hở ra cái gì nó “quất” liền, kể cả quần áo đang phơi trên balcon, đôi giày để trước cửa…Có lần nó bế bổng một bé gái mới vài tuổi đang tha thẩn chơi một mình trước nhà chỉ để rút đôi dép. Không phải lần nào cũng trót lọt, đi đêm có ngày gặp ma, đôi khi cũng bị bắt quả tang, người ta đập ột trận thừa sống thiếu chết rồi thả ra, không ai giao cho công an, nó chưa tới tuổi vị thành niên.

***

Thằng Hắc Quẩy bằng tuổi tôi, tuổi con cọp. Nó là cọp rừng, cọp đường phố. Tôi là cọp nhà, cọp giấy. Cũng như mọi đứa con nít trên thế gian, thằng Hắc Quẩy cũng ham chơi sau những giờ đi… chôm chỉa căng thẳng. Thấy đám con nít chúng tôi hay tụ tập ở khoảng sân trống cuối hẽm bày trò chơi, nó cũng xáp lại. Nhưng vừa thấy nó là cả đám tản ra chạy về nhà hoặc chạy ra xa đứng nhìn nó. Lúc đầu nó ngẩn ngơ một chút, rồi như chợt hiểu, lủi thủi bỏ đi. Không cho nó chơi, nó phá. Có khi nó chạy ào tới nhảy xổ vào, đánh đứa này, thoi đứa nọ, níu tóc đứa kia làm chúng tôi chạy tán loạn. Có một trưa hè, tôi trốn ngủ tha thẩn ra sân hẻm, đám bạn chưa đứa nào đến, thằng Hắc Quẩy bỗng xuất hiện. Tôi giật mình quay lại thủ thế, nhưng tôi thấy vẻ mặt nó không có gì là ác ý, thân thiện nữa là khác. Nó bước đến xòe bàn tay ra, có hai cục bi cũ trong tay. Nó rủ: “Chơi không, tao với mày chơi bắn bi”. Không hiểu sao tôi gật đầu. Chắc tôi đồng tuổi, với lại tướng tá tôi còn bự hơn nên ít có cảm giác sợ hãi, vì vậy nó mới có dịp rủ tôi chơi chung. Mấy đứa khác thấy nó là chạy mất dép. Bắn bi với nó được vài ba lần bỗng dưng tôi nổi tiếng: dám chơi với thằng Hắc Quẩy chôm chỉa. Ba tôi quất đủ mười roi bằng cây chổi lông gà vào mông, cấm tiệt không cho ra sân hẻm chơi. Mấy hôm sau, con nhỏ em gái về khều tôi nói nhỏ: “Hồi trưa thằng Hắc Quẩy tới sân hẻm, nó kiếm anh”. Hết hè tôi vô trường cấp ba, thằng Hắc Quẩy nghe đâu vô trường giáo dưỡng. Kể từ đó tôi không còn gặp nó nữa. Cho đến khi tôi đang học lớp mười hai, chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông, anh cảnh sát khu vực đi ngang nhà kể với mẹ tôi: “Anh em nhà thằng Hắc Quẩy không cha, không mẹ mà vẫn lớn, mạnh khỏe không sẩy đứa nào. Trời nuôi tụi nó, có điều trời không dạy nổi thằng Hắc Quẩy thím ơi!. Lúc này nó “làm ăn lớn”, trộm cắp chuyên nghiệp rồi, vô tù ra khám như cơm bữa.”. Còn tôi, đậu tốt nghiệp phổ thông, tôi thi đại học và trúng tuyển… nghĩa vụ quân sự.

****

Năm năm sau tôi xuất ngũ. Không nghề, không vốn, thất nghiệp hơn nửa năm. Hôm nọ anh Tư ở cùng xóm, giờ làm phó chủ tịch phường qua nhà nói với mẹ tôi cho tôi vô phường làm. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là cùng với một cán bộ dẫn hơn ba mươi đối tượng vừa mãn hạn tù đang chịu sự quản lý của địa phương đi lao động. Thật ra đây là công trình do phường nhận để giải quyết công ăn việc làm tạm thời cho những người vừa ra tù. Sáng đó, nhỏ em gái - mới thành cô giáo dạy tiểu học - chuẩn bị cho tôi một lon cơm nhét cái trứng kho, nó nói: “Anh Hai lấy cái xe đạp em đi làm. Tuần này em ở nhà. Mai mốt anh đi làm kiếm tiền ráp thêm một chiếc”. Giá trị cái xe đạp thời đó lớn lắm. Nếu tính lương giáo viên tiểu học phải ba bốn tháng nhịn ăn mới sắm được một chiếc. Đạp xe lên phường, tôi thấy đã có nhiều người, người đi bộ, người đi xe đứng ngồi lố nhố. Tôi nhận ra ngay thằng Hắc Quẩy đang đứng dựa góc tường nhả khói thuốc, mặt mày nó không khác gì hồi nhỏ, chỉ thêm cái quần dài ka ki cũ, cái áo jean bạc chỉ cài hai nút phía dưới. Nó cũng nhận ra tôi, bước đến cười cười hỏi liền, không cần chào:

- Nghe nói ông mới đi lính về?

- Ừ! Sao biết?

Nó không trả lời vô thắc mắc của tôi:

- Còn tôi mới ở tù về!

- Khỏi khoe, thấy ông có mặt ở đây tôi biết rồi.

Chỉ bao nhiêu đó, tôi với nó không nói thêm tiếng nào. Tôi chở nó lên chỗ lao động. Nó khỏe như con trâu, sức làm bằng ba bốn người. Có người khen, nó nói nhờ ở tù lâu, lao động quen rồi. Giờ nghỉ trưa, tôi giở lon cơm mời, nó lắc đầu:

- Có nhiêu đó, ông ăn còn không đủ. Ông cho tôi mượn cái xe đạp đến chỗ nhỏ em thăm nó một lát, từ lúc ra tù chưa gặp, nghe nói nó mới sinh con.

- Đi đi, mà nhớ về đúng giờ làm – Tôi đồng ý không chút ngần ngại – Mà em gái ông bao nhiêu tuổi mà sinh em bé.

- Mười chín

Nó vừa thót lên yên đạp đi, lập tức mấy người làm chung đang nghỉ cách đó mấy cái hố móng ập đến bên tôi :

- Trời! sao ông cho thằng Hắc Quẩy mượn xe đạp. Bộ ông không biết nó hả. Nó là thằng Hắc Quẩy, thằng Hắc Quẩy, ông biết chưa.

Tôi sững người, giật mình quăng lon cơm chạy nhanh ra đường đuổi theo, nhưng không còn kịp nữa, bóng thằng Hắc Quẩy khuất hẳn sau làn xe cộ đông đúc. Tôi quay vô, ngồi phịch xuống đất, tưởng tượng hình ảnh khuôn mặt mếu máo của nhỏ em gái khi biết tin chiếc xe đạp thân yêu bay theo thằng Hắc Quẩy, thật tình tôi chịu không nổi. Suốt buổi chiều, tôi vừa làm vừa ngóng, đi ra đi vô, nó vẫn chưa quay lại. Hết giờ làm, tôi nán lại chờ trước những ánh mắt thông cảm cùng những lời an ủi:

- Lên xe, tôi chở ông về, kể như tiêu rồi. Về ráng kiếm chiếc khác. Cái xe vô tay nó như mỡ gặp miệng mèo. Nó không quay trở lại đâu.

Tôi từ chối, không về, nói thẳng ra là không dám về. Với nhỏ em gái, cái xe đạp là cả gia tài của nó lúc đó, hình như nó còn vay tiền để ráp chiếc xe. Có thể nó không dám trách móc tôi nhiều, nhưng… tôi vẫn chưa dám bước về nhà. Thành phố bắt đầu lên đèn, tôi uể oải đứng lên, phủi bụi, lết từng bước nặng nề, tự trách sao lại ngớ ngẩn như vậy. Bỗng một chiếc xe đạp thắng gấp trước mặt tôi, khuôn mặt thằng Hắc Quẩy như từ dưới đất chui lên, nhe răng cười toe tóet. Tôi chộp ngay cổ nó, định dộng vô mặt nó một dộng nhưng kịp dằn lại. Tôi xô nó xuống xe, giằng lấy chiếc xe, đạp thẳng về nhà bỏ mặc nó đang lồm cồm bò dậy. Về đến nhà tôi dắt chiếc xe ra tuốt sau nhà, vòng sợi xích bóp chặt ổ khóa. Nhỏ em gái ngạc nhiên không hiểu chuyện gì, cứ đi theo hỏi. Tôi trả lời:

- Không có chuyện gì hết. Trả em chiếc xe, mai anh đi bộ được rồi, ở chỗ làm, xe để không ai coi, dễ mất lắm.

Một giờ sau có tiếng gõ cửa. Thằng Hắc Quẩy đứng lù lù trước nhà, tôi kéo nhanh nó ra quán cà phê, sợ nhỏ em thấy:

- Cái gì đây, định mượn xe nữa hả. Bán không được mới đem về trả phải không?

Nó cười khùng khục:

- Cái xe tốt lắm, bộ đồ lòng (xích, líp, đùm) toàn đồ ngoại, chạy nhẹ re. Vô tay tôi, cái quần cũ còn bán được huống chi cái xe của ông.

Giọng nó bỗng chùng xuống :

- Nói thiệt, lúc đầu tôi nghỉ ông không bao giờ dám ột thằng trộm cắp như tôi mượn xe, không ngờ ông lại để tôi lấy xe dễ dàng như vậy. Mới ra tù, tôi “vả” lắm, định “thẩy” nó rồi, nhưng… tôi không làm được. Tôi thiếu đủ thứ, thiếu mẹ, thiếu cha, không bạn bè, chẳng ai dám chơi. Hồi nhỏ chỉ có ông dám chơi với tôi. Tôi về nhà, chị tôi còn đem đồ đạc đi giấu, vậy mà ông cho tôi mượn xe tỉnh bơ. Như vậy ít ra còn có ông có lúc coi tôi là một con người bình thường, bởi vậy tôi phải đem xe trả ông như một chuyện bình thường.

Tôi không ngờ con người như thằng Hắc Quẩy mà nghỉ được điều này. Nó biết đâu tôi cho nó mượn xe chỉ là một phút mất cảnh giác, quên phắt nó là một tên trộm cắp, chưa bao giờ tôi coi nó là một người lương thiện bình thường. Tôi im lặng, cố giấu suy nghĩ của mình. Phải chăng chỉ cần xem nó là người lương thiện, nó sẽ trở nên lương thiện. Ảo tưởng. Nhưng trong trường hợp này là thật. Cuối cùng tôi vỗ vai nó

- Dù sao, tôi cũng cám ơn ông đã không bán xe của nhỏ em. Chắc chắn ngày mai nếu tôi lấy xe tiếp tục chở ông đi làm, mọi người sẽ nhìn ông một cách rất khác thường. Ông không còn là một thằng Hắc Quẩy bình thường nữa. Ông ráng làm một thằng Hắc Quẩy khác thường đi.

23. Mắc nợ thòng đong

Truyện ngắn của Trần Hồng Giang

Chiều. Mưa xối xả từng cơn, gió lồng lộn giẫy lên như một kẻ khùng trong cơn điên loạn. Mưa đổ ràn rạt lên mái tôn tạo nên những âm thanh chói lói rồi hắt vào trong căn phòng trọ chừng 8 mét vuông từng vụm nước.

Trên mép giường nơi góc căn phòng, hắn ngồi bó gối, mắt gườm gườm nhìn ra phía cánh cửa đang rung lên từng nhịp theo gió. Một lát, hắn lại chống tay duỗi người rồi bỏ thõng một chân xuống dưới sàn nhà ướt lép nhép. Hắn buông một tiếng thở dài, tiếng thở dài nghe rất sâu tưởng như rút hết không khí từ lồng ngực của hắn.

Có tiếng động lịch kịch rồi cánh cửa mở hé ra. Một mái tóc dài đẫm nước thò vào phòng, tiếp sau là một thân hình phụ nữ gầy lẵng nhẵng bó sát vào bộ quần áo sũng nước.

- Sao ngu vậy, không biết đợi cho ngớt mưa rồi hãy về à? – Hắn quạu cọ.

- Đợi ngớt mưa thì đến sáng mai à! – Ả đàn bà vừa lột bộ quần áo sũng nước vừa lầm bầm.

Ả nói dứt câu thì bộ quần áo ướt cũng được vo tròn lại và ném toẹt vào góc nhà. Trên đường bay của cú ném, những sợi dây loằng ngoằng của chiếc áo ngực bung ra mắc toòng teng vào tay lái chiếc xe đạp cũ dựng ở sát vách trông rất nghịch mắt.

Hắn nhổm người một chút, thủng thẳng co chân ngồi khoanh lại trên giường rồi hất hàm về phía ả đàn bà khi đó đang trần như nhộng:

- Thế nào, có kiếm được cái gì không?

- Mưa gió thế này, đứa nào nó ngu gì mà thò mặt ra đường ình thịt nó! - Ả nói thế nhưng rồi bỗng lại bật cười hi hí rất khoái trá. – Nhưng mà có cái này!

Ả bước vội về phía góc nhà, nơi bộ quần áo ướt đang nằm tơ hơ. Ả bới bới vài cái rồi nhặt lên cái quần sịp, lộn ngược và móc từ trong đó ra một tấm thẻ từa tựa như cái chứng minh nhân dân. Hắn nhướng mắt, đưa tay ra giật vội lấy:

- Gì đây?

- Xem đi rồi biết!

Hắn lật qua lật lại, đọc rành rọt: “Thẻ hội viên Hội nhà văn…”. Hắn chun cái mũi lại khịt khịt vài cái rồi quăng toẹt cái thẻ xuống mặt chiếu:

- Cái của khỉ này thì làm được cái đếch gì!

- Hứ, sao bảo thông minh lắm mà hôm nay lại đần thối ra thế!

Ả đàn bà khi đó đã mặc xong bộ quần áo khô được lấy ra từ cái thùng nhựa đặt ở gầm giường. Ả bước tới, ngồi lên mép giường, đặt tay lên vai hắn, hạ giọng ra vẻ quan trọng:

- Tôi đội mưa mò theo lão này về tận nhà rồi. Nhà lão to vật vã, giàu tú hụ ra.

- Giàu thì làm gì! Nó ình à? Càng cái loại nhà giàu thì nó càng cú đỉn.

- Hôm nay ốm rồi hay sao mà đầu óc chậm hiểu thế? - Ả đàn bà đưa tay giúi đầu hắn xuống. – Cái này ngày mai mang đến nhà rồi bắt lão ấy chuộc mà chả được vài trăm à!

Cái mặt hắn chợt tươi lên hơn hớn, tiếng cười phát ra từ cổ họng nghe lục khục rất quái dị:

- Đúng rồi, cái bọn nhà văn là hay sĩ rởm lắm, mất cái bùa này thì lấy cái chó gì mà đem ra khoe với thiên hạ; với lại bọn ấy cũng chả muốn cho ai biết là mình bị mất thẻ đâu, có mà muối mặt à! Ừ hứm, rồi sẽ ra vấn đề đây!...

Hắn cẩn thận nhét tấm thẻ vào túi quần rồi cài khuy lại. Bên ngoài, trời vẫn mưa xối xả nhưng gió đã dịu đi, không còn lồng lộn lên như lúc trước. Ả đàn bà ngồi xổm dưới sàn nhà, xoay lưng lại phía hắn, trước mặt là một cái bếp than cháy nghi ngút.

Chưa đến 7 giờ sáng, hắn cùng ả đàn bà đã có mặt trước cánh cổng sắt sơn màu huyết dụ của một ngôi nhà sang trọng. Ngôi nhà nằm ngay trên mặt tiền một con phố lớn nhưng cửa đóng im ỉm chứ không bày ra kinh doanh thứ gì. Hắn lẩm bẩm: “Rõ phí, phải tay ông thì có mà vơ bộn tiền!”. Ả đàn bà từ phía sau bước sát đến đưa khuỷu tay huých vào lưng hắn giục giã:

- Bấm chuông đi! Chứ còn đợi người ta ra mời vào nữa chắc!

Hắn với lên cái núm nhựa màu đỏ gắn bên cạnh cổng. Thay cho tiếng chuông là giai điệu của bản nhạc “Thư gửi Ê - ly” mà hắn đã nghe quen ở quán cà phê Minh Đạt nơi thường ngày hắn hay lai vãng. Cái đầu hắn gật gù theo tiếng nhạc, bàn chân trái xỏ trong một chiếc dép giả da cũ sờn cũng nhóng lên nhóng xuống nhịp nhịp.

- Gì mà nhấn chuông liên hồi vậy mấy người? Nhả ra cho bớt chói lỗ tai dùm đi!

Hắn giật mình rút tay về. Cánh cổng kêu lạch xạch xủng xoảng rồi được mở hé ra. Một cái đầu đàn bà tóc uốn lù xù được gá trên một thân hình béo ục ịch nặng nề ló ra sau cánh cổng. Chả hiểu sao khi ấy hắn lại cuống lên nói ríu cả lưỡi:

- Tôi... tôi…bọn tôi…muốn gặp ông…Duy Hòa.

- Duy Hòa nào ở đây mà tìm?

- Ông nhà văn…ở nhà này…

- Văn vẻ gì ở nhà này! Mấy người có bình thường không vậy? – Bộ tóc uốn xù lui vào sau cánh cổng.

- Chờ tý đã bà chị! – Hắn loay hoay cởi khuy túi quần móc ra chiếc thẻ rồi gí vào trong cánh cổng. – Là ông này đấy!

- Lão này hả? Chiều qua tới đây xin tiền rồi về luôn mà! – Giọng nói đổi tông, kéo dài ra chua lè: - Nhà văn nhà thơ gì cái hạng ấy, có mà trấn lột thì có! Tìm cách moi bằng được tiền trong túi người ta ra thì mới chịu để yên!

Cánh cổng sắt đóng sầm lại ngay sát mặt hắn. Hắn quay người trở bước, nhìn ả đàn bà đang đứng ngây ngúa ra ở đó, hắn thấy cáu tiết liền cầm ngay cái thẻ ném tẹt vào mặt ả rồi cun cút bước vội đi tựa như bị ma đuổi. Ả đàn bà tẽn tò đứng cúi mặt rồi cũng rảo bước theo hắn. Đi được dăm bước thì ả ngần ngừ dừng lại. Ả ngoái nhìn lại về phía chiếc cổng sắt màu huyết dụ, và nơi đó, ngay dưới mặt đất, tấm thẻ của nhà văn Duy Hòa nằm chỏng chơ, lạc lõng. Một hai phút trôi qua, ả đàn bà quả quyết bước tới nhặt tấm thẻ lên, phủi bụi rồi cẩn thận nhét nó vào trong lai quần.

Xe buýt giờ cao điểm, người đông như nêm cối. Hành khách trong xe ai nấy dáng vẻ đều mệt mỏi, nhăn nhó. Xe vừa trờ tới trạm, còn chưa kịp dừng hẳn thì đã có người ở trên nhảy xuống. Người ở phía dưới trạm chờ cũng xăm xắn đứng lên dồn cả vào cửa xe. Hắn lanh lẹ len lên với cái tay cầm trên cửa xe rồi lấy sức đu mình lên chen vào bên trong xe. Những người phía sau hắn khó nhọc theo nhau bước lên từng bậc cửa. Khi người khách cuối cùng bước lên và còn đang ngó nghiêng tìm ình một chỗ ngồi, thì bỗng ở hàng ghế cuối xe có tiếng la lớn:

- Cướp! Có cướp…nó giật túi xách của tôi!...

Bóng hắn thoáng qua trước mặt mọi người và lao ra cửa xe khi đó cũng còn chưa kịp đóng lại. Người lái xe nghe tiếng hô cướp thì cũng vội đạp phanh, cả chiếc xe buýt chao đi, chúi về phía trước. Dưới tác động của pha phanh gấp nên cú nhảy của hắn không được chính xác. Một cẳng chân của hắn trượt vào cạnh mép vỉa hè làm hắn ngã giúi giụi đau điếng. Ngay lập tức hắn xoay người ngỏm dậy nhưng rồi lại đổ vật xuống nằm im ôm chân xuýt xoa. Khi mọi người từ trên xe đổ xuống đứng vây quanh thì hắn vẫn nằm nguyên tư thế đó, chiếc túi xách của người khách nọ văng ra bên cạnh. Một anh chàng cao to mặc chiếc áo thun màu ghi, giữa ngực có in hàng chữ Puma to tướng xông vào túm lấy cổ áo hắn kéo dựng lên rồi vung tay dứ dứ nắm đấm vào mặt hắn. Hắn nhăn nhăn cái mặt, miệng rên rẩm ra chiều khá đau đớn. Những tiếng la ó, chửi rủa cất lên ồn ào:

- Đánh chết nó đi! Đánh cho chừa cái thói trộm cắp đi!

- Giải nó lên công an đi! Cho nó ngồi tù mọt gông cho sáng mắt ra!

- Cần gì phải công an, cứ cho nó một chầu hội đồng cho biết lễ độ!

- …

Một cái chân của ai đó tung lên, thân hình hắn oằn lên, hai tay hắn chới với trong không khí rồi vòng xuống ôm lấy bụng, nước mắt hắn ứa ra rơi thành giọt. Người khách bị hắn giật túi xách khi đó đứng liền bên cạnh, tay đã ôm chặt lại chiếc túi ở trước ngực, chị ta nhìn thấy một vệt máu từ khóe miệng hắn tứa ra thì vội đứng chen vào giữa ngăn lại:

- Thôi tha cho nó các chú ạ, của tôi vẫn còn nguyên đây, trời cũng đã muộn, ta lên xe đi thôi!

Cùng lúc đó tiếng còi xe cũng vang lên, những tiếng nói ồn ào lắng xuống, đám đông lại rục rịch quay trở lại trong xe để tiếp tục hành trình bỏ lại mình hắn ngồi đừ đẫn trên vỉa hè. Hắn ngồi đó một lát rồi chống tay đứng dậy, chân khập khiễng lê từng bước dưới nắng trưa đi ngược về phía đầu con phố.

Quá trưa hắn mới về đến phòng trọ, đẩy cửa đi vào thì đã thấy ả đàn bà ngồi thù lù trên giường, trước mặt là một mâm cơm được đậy lại bằng cái rổ nhựa. Thấy hắn tập tễnh đi vào ả đàn bà đứng dậy thảng thốt:

- Làm sao thế? Đi đứng thế nào mà ra thế kia!
Hắn không nói không rằng, ghé ngồi lên giường rồi duỗi chân kéo ống quần lên. Một vệt xước rớm máu chạy chéo ngay trên ống chân hắn đã bắt đầu tấy lên đo đỏ. Ả đàn bà bước vội tới cuối phòng với lên cái giá treo đồ lấy xuống một lọ dầu nóng đã dùng dở. Ả mở lọ dầu, xòe bàn tay trái ra dốc ngược lọ dầu vào đó, sau đó lật tay tẹt lên chân hắn rồi cứ thế mà miết đi miết lại. Hắn ngả người, chống hai tay ra sau, mắt nhắm lại, khuôn mặt khẽ nhăn lên sau mỗi cái miết tay của ả đàn bà. Hồi lâu, hắn mở mắt ngồi thẳng dậy, như chợt nhớ ra điều gì, hắn lấy lại vẻ mặt điềm tĩnh hất hàm về phía ả đàn bà:

- Thế nào, hôm nay có ghé vào chỗ con bé không?

- Có chứ. Tôi đến một lúc thì nó vội đi học nên không ngồi được lâu, chỉ kịp đưa tiền cho nó xong rồi về. - Ả đàn bà xoa hai tay vào nhau, kéo ống quần xuống cho hắn rồi đứng dậy.

- Nó có nói gì không?

- Nó bảo vẫn học tốt, cuối tháng này sẽ thi cái gì đó, sẽ phải đóng thêm tiền…

- Vậy à!...

- Nó còn bảo…

- Gì nữa?

- Nó bảo hay là con nghỉ học đi làm kiếm tiền phụ với bố mẹ.

- Cái gì? Nghỉ học á? – Hắn giật thột, miệng hơi há ra, vài tia nước bọt bắn ra rơi xuống cánh tay. – Tao là tao cấm đấy! Không liệu đường mà bảo nó thì đừng hòng mà sống! Tao giết đấy, giết hết cả mẹ lẫn con nghe chưa?

Tiếng hắn gầm lên nghe rờn rợn, cơ mặt hắn giật giật, hàm răng nghiến lại kêu kèn kẹt, mắt vằn lên những tia màu đỏ, bàn tay phải nắm lại đấm đấm xuống thanh gỗ cạnh giường, mâm cơm ở trên giường nẩy lên làm bát đĩa va vào nhau kêu lanh canh. Ả đàn bà sợ sệt đứng nép vào góc phòng len lét nhìn hắn. Nhưng ả còn chưa kịp trấn tĩnh thì đã lại thấy hắn đưa tay bưng mặt khóc tức tưởi. Hắn khóc tấm tức, ti tỉ như đứa trẻ bị đòn oan. Bờ vai hắn rung lên nhịp nhịp theo những tiếng nấc ứ nghẹn nơi cổ họng. Hắn khóc và than vãn những câu gì đó nghe ú ớ không rõ lời. Những âm thanh dồn nén trong nỗi uất ức giống như dòng nước bị tắc nghẽn lâu ngày trong một con suối hẹp. Trên giường, mâm cơm đã nguội ngắt, còn ả đàn bà thì ngồi xệp xuống sàn nhà mắt ngó mông lung ra cửa rồi buông một tiếng thở dài.

Sáng sớm, khi hắn vừa thức dậy thì đã thấy ả đàn bà đi từ ngoài vào, trên tay xách toòng teng một cái túi ni-lông trong đựng ít hoa quả và mấy chai nước ngọt. Hắn giụi mắt nhìn ra, nét mặt hiện rõ vẻ ngạc nhiên:

- Của nợ gì thế kia?

- À, con bé nó bảo hôm nay đưa mấy đứa bạn về chơi! Tôi mua tạm cho nó có cái đãi bạn.

- Cái gì? Bạn á? Không được, bảo nó đừng đưa bạn về đây, có phải nhà mình đâu mà đưa về! Đưa bạn về đây nhìn cái hang chuột này để cho chúng khinh thường mình đi à!

- Nhưng nó hẹn thế rồi, giờ sao nói lại cho kịp!

Hắn choàng dậy, ngồi yên thừ thẫn. Tình huống này diễn ra ngoài ý thức chủ động của hắn, chưa bao giờ hắn lại có ý nghĩ rằng sẽ có lúc ai đó đặt chân đến cái phòng trọ ẩm thấp tối tăm này. Hắn thấy hơi mất bình tĩnh, đầu hắn như căng ra, một vài phương án đối phó theo bản năng được đặt ra nhưng rồi lại nhanh chóng bị hắn gạt bỏ. Hắn sẽ phải làm gì bây giờ nhỉ? Hai tay hắn ôm lấy đầu, những ngón tay đan chéo vào nhau ở phía sau gáy, hắn gục gặc di di cái cằm xuống gối chân khi đó đang chống lên trước ngực.

- Chứ làm sao mà phải thộn mặt ra thế! - Ả đàn bà cầm cái lược vừa gỡ tóc trên đầu ra đập đập lên vai hắn. – Có gì mà phải lo, bạn con mình nó tới đây, đứa nào nó chê mình nghèo nó khinh mình thì thôi, khỏi cần chơi với nó, đứa nào nó thông cảm chia sẻ được với mình thì càng quý, con mình nó càng biết đường mà chọn bạn chứ có sao!

Hắn ngồi yên lặng nghe ả đàn bà rỉ rả. Hắn chợt nghĩ cũng phải, đời có là cái chó gì đâu nhỉ, cũng phải để cho con bé nó thấy được cái sự đểu cáng tráo trở ở đời để còn biết cách mà sống chứ. Trong lòng hắn bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn, khuôn mặt hắn trở lại vẻ nhâng nhâng bất cần vốn có. Hắn đứng dậy vươn vai hít một hơi căng lồng ngực. Tuy vậy nhưng rồi hắn vẫn xẵng giọng nói với ả đàn bà:

- Thôi thì ông mặc xác! Lát nữa tao biến ra đường ẹ con nhà mày muốn làm gì thì làm!

Miệng nói thế nhưng khi thấy ả đàn bà cầm cái chổi sể lùa vào gầm giường quét dọn thì hắn cũng xăm xắn dọn dẹp sắp xếp những thứ đồ đạc lỉnh kỉnh đang bày ra khắp căn phòng. Cái bếp than này hả, thôi cứ tống tạm mày vào gầm giường, lúc sau lại moi ra cũng chả khó nhọc gì; cái giá để bát đĩa này ư, để vào đâu nhỉ, mà thôi cứ để yên nó đấy, nhà đứa nào mà chẳng có bát đĩa, chứ không chả ăn bốc à…

Khi căn phòng đã trở nên quang đãng sạch sẽ hơn một chút thì hắn nhìn vào cái đồng hồ trên tường. Chết cha, thế mà đã hơn 9 giờ. Hắn vơ lấy cái áo vắt hờ lên vai rồi bước vội ra cửa. Sau lưng còn nghe tiếng ả đàn bà vọng theo: “Biến thật à!”.

Hắn vừa ra tới khúc quẹo gần đầu hẻm thì nghe tiếng ồn ào, hắn nghe giọng quen. Thôi chết, sao nó về sớm thế chứ! Hắn luống cuống giây lát rồi bước quay ngược trở lại. Ả đàn bà ngạc nhiên khi thấy hắn nhanh chóng quay về:

- Thế nào, đổi ý rồi hả?

Hắn chẳng nói chẳng rằng, đứng trân trân mắt dớn dác nhìn một lượt quanh căn phòng. Cuối cùng hắn bước về phía cái toilet ở cuối phòng, đẩy cửa chui vào đó và khóa trái lại. Ả đàn bà còn chưa kịp hiểu điều gì đang xảy ra với hắn thì một tốp bốn năm cô cậu thanh niên đã bước vào đứng chật cả bậc cửa. Những tiếng chào hỏi líu ríu, những bước chân loạt xoạt, những tiếng cười trong trẻo giòn tan cứ quyện vào nhau không dứt. Căn phòng trọ nhếch nhác tối tăm thường ngày bỗng vụt trở nên rạng rỡ lạ thường. Ngồi trong ngăn toilet, tai hắn không bỏ sót một âm thanh nào từ phía ngoài vọng vào. Tiếng nước rót vào ly lóc róc, tiếng ả đàn bà đon đả mời mọc, tiếng mấy đứa con gái chọc ghẹo nhau cười chí chóe rồi có cả tiếng nói đầy vẻ trịnh trọng của một thằng con trai: “Thưa bác, ngày mai nhà trường làm lễ tốt nghiệp cho bọn con, vậy nên bọn con muốn mời hai bác tới dự cho thêm phần ý nghĩa ạ!”.

Cái gì? Tốt nghiệp á? Vậy là con bé đã trở thành cử nhân rồi ư? Hắn thấy sống mũi cay cay, khóe mắt rơm rớm nước. Ừ nhỉ, vậy là con bé đã có thể ngẩng đầu lên mà nhìn người trong thiên hạ rồi! Một giọt nước từ mắt hắn trào ra lăn xuống gò mà rồi trượt vào miệng mằn mặn, trong khi khuôn mặt hắn lại ánh ngời lên một niềm hạnh phúc khôn tả.

- Cái bếp nhà cậu ở đâu nhỉ? – Tiếng một đứa con gái cất lên đưa hắn về thực tại.

Cái quỷ quái gì nữa không biết? Hắn khe khẽ lẩy cái chốt rồi he hé cánh cửa ghé mắt nhìn ra. Hắn thấy ả đàn bà đang cúi xuống gầm giường cố gắng moi cái bếp ra, một thằng con trai thấy thế liền gạt ả ra rồi chui đầu vào lôi cái bếp ra ngoài một cách gọn lẹ. Phía bên ngoài, mấy đứa con gái đang xúm xít quanh một cái rổ, trong đó xếp đầy những bắp ngô trắng ngà múp míp. Bố khỉ, lại còn thế nữa!

Cánh cửa toilet bất ngờ bị đẩy mạnh vào trong làm hắn giật mình ngã ngửa ra sau.

- Ôi, sao bố lại ngồi đây!

Hắn xua xua hai tay luống cuống:

- À, ừ…không sao!...Bố chỉ bị đau bụng tý thôi!...

Mờ sáng, mụ chủ khu phòng trọ mở cánh cổng sắt lạch xạch để đi ra phố tập thể dục. Liền sau đó hắn nghe có tiếng thì thầm to nhỏ, hắn nhóng tai lên nghe ngóng. Giọng của ả đàn bà đang tỉ tê gì đó với mụ chủ. Lát sau, hắn thấy mụ kia ré lên một tràng: “Ôi, đã tốt nghiệp rồi cơ à! Nhanh nhỉ! Mà con bé cũng rõ là ngoan nết, chả bù cho cái loại nhà này, nướng đi của bố mẹ cơ man là tiền của rồi mà cũng không nên hồn người. Thôi thế là sướng rồi nhá! Ừ, để tôi lấy à mượn, ngày trọng đại thế này cũng phải tươm tất một tý chứ, ở đời dễ có được mấy dịp thế này!”.

- Định bày ra trò gì nữa đây? – Hắn vẫn nằm yên trên giường và cất tiếng hỏi khi ả đàn bà bước vào, trên tay cầm một bộ áo dài màu tím nhạt.

- Thì đến chỗ con bé chứ đâu!

- Đến thật à?

- Rõ vớ vẩn! Không thật thì giả à? Mà không đi đến đấy hay sao mà còn hỏi thế?

Hắn trân mình nằm xoay mặt vào tường, một tiếng “Không!...” khẽ thoát ra khỏi cổ họng. Ả đàn bà giũ giũ cái áo dài cho phẳng ra rồi ướm vào người.

Sân trường đại học chật kín. Người ở đâu ra mà lắm thế chứ, cái sân thì hẹp mà người thì cứ tầng này lớp kia chen nhau ra tận cổng còn chưa hết người. Ả đàn đàn bà nhón chân ngóng cổ nhìn vào trong. Bộ áo dài của mụ chủ phòng trọ làm ả vướng víu suýt ngã mấy lần. Chợt ả khựng lại vì bờ vai bị một bàn tay nắm lấy. Ả quay lại nhìn và dẩu cái môi lên:

- Sao bảo không đi mà còn mò đến đây? Rõ là đồ hâm!

- Hâm hay không mặc xác ông! – Hắn lên giọng nạt nộ như thường ngày.

Thế vậy nhưng hôm nay ả đàn bà có vẻ phởn nên vẫn tiếp tục day dí:

- Muốn đi bỏ mẹ mà còn làm bộ ta đây!…Mà con bé đâu nhỉ? Toàn người là người thế này…Á kia rồi! Mà sao nó lại mặc bộ quần áo lụng thụng như ông cung văn thế kia, con này dở người rồi à!...

- Ngu lắm! – Tiếng hắn khe khẽ thoát qua kẽ răng: - Quần áo ông nghè đấy! Con mình giờ là cử nhân rồi, chả kém cạnh đứa nào đâu!

- Vậy à, ai biết đâu…

Tiếng cái loa phóng thanh ồm ồm vang lên cắt ngang cuộc đôi co giữa hắn và ả đàn bà: “Kính mời nhà văn Duy Hòa, chủ nhiệm quỹ hỗ trợ “Vì tương lai xanh”, người đã đồng hành cùng các em sinh viên nghèo hiếu học trong suốt thời gian qua lên phát biểu ý kiến!”.

Cái gì? Duy Hòa á? Tim hắn giật thột, tâm trạng bối rối. Hắn quay sang phía ả đàn bà thì thấy ả đang cầm tấm thẻ trên tay mân mê ngắm nghía. Mắt hắn bỗng sáng lên như bắt được vàng, hắn quành tay qua vai ả đàn bà rồi ghé sát vào tai thì thầm: “Lát nữa mình ra cổng đứng chờ trả lại cho ông ấy!”.

24. Nhoẻn miệng và cười

Truyện ngắn của Đào Nguyễn Thị Anh

Nương gặp cô gái ấy trong một buổi tiệc cô đi cùng chồng, cô gái có đôi mắt buồn không thể lẫn vào đám đông dù âm nhạc và mọi thứ rất ồn ào sôi nổi. Không hiểu sao Nương bị ấn tượng rất mạnh bởi cái nhìn của cô gái, họ không quen, nhưng buộc Nương phải gật đầu chào xã giao, dù xung quanh cũng có rất nhiều người không quen như cô gái đó.

Bào, chồng Nương, cũng không ngoại lệ, anh đứng thẩn thờ mấy giây trước cô gái rồi bàn tay anh tự dưng rịn mồ hôi, ríu ríu nắm tay Nương kéo đi. Nương ngoái lại nhìn, cô gái nhoẻn miệng và cười với Nương. Hai bàn chân Nương như chôn xuống đất, không bước tiếp được. Cái cười của cô gái cứ như có ma thuật làm hút hồn người nhìn nó, cái cười như của ai đó rát quen. Nương thầm cám ơn trời đã không để Bào nhìn thấy cái cười đó, cái cười không vồn vã nhưng đủ sức hút kéo người đối diện đi theo những suy nghĩ của mình.

Lẽ ra, sau bữa tiệc ấy thì mọi thứ sẽ kết thúc, ai về nhà nấy, Bào và Nương sẽ lại có một cuộc sống vợ chồng đầm ấm như chính họ đang có mà mong muốn có cho đến hết cuộc đời. Nhưng Nương bị cái cười của cô gái làm cho đầu óc mụ mị đi, nó mụ mị đến nỗi lúc nào Nương cũng nghĩ chồng đang ngoại tình với cái nụ cười đó. Nương bắt đầu hạch sách, bắt đầu nghi ngờ, bắt đầu suy diễn hết tất cả những gì thuộc về Bào, bất cứ hành động nào của Bào, Nương cũng nghĩ có liên quan đến cô gái mà Nương đã gặp ở bữa tiệc.

Bào không bào chữa, không thanh minh, không cãi cọ. Chỉ thấy Bào bắt đầu mệt mỏi với những suy diễn của Nương, anh đi sớm hơn và về muộn hơn, anh ít ăn cơm nhà hơn, ít nói chuyện với vợ hơn, mọi thứ tồi tệ tới mức Nương yêu cần anh ký đơn ly hôn. Mọi thứ gần như đổ vỡ.

Nương có cái giác quan và linh cảm của đàn bà, Bào nghĩ vậy, cái giác quan đó chưa bao giờ sai, dẫu ban đầu Bào không tin là mình có thể phản bội lại Nương, nhưng Bào không cưỡng lại được trái tim mình, lúc nào nó cũng nói với Bào rằng, tình yêu của anh là ở đôi mắt buồn thăm thẳm và cái cười rất nhẹ kia.

Bào đã gặp lại cô gái trong một đêm say khướt loạng choạng tay lái để về nhà, cô gái với chiếc váy hoa mà Bào đã gặp hôm nào, đi lang thang một mình trên phố. Bào dừng lại, cô gái chỉ nhoẻn miệng và cười. Bào như bừng tỉnh, tỉnh hẳn dù trước đó Bào nghĩ mình không thể lái xe về đến nhà, Bào bảo cô gái lên xe rồi anh chở đi. Đêm ấy, Bào đã không về nhà thật.

Nương và Bào như hai người ở cùng nhà trọ, không nói gì với nhau, phần ai nấy sống. Nhiều đêm nằm thức trắng suy nghĩ tới lui, Nương tự hỏi liệu mình có công tâm khi ghen tuông mà không có một chứng cớ nào xác đáng? Cái nhoẻn miệng cười ấy hút hồn chính Nương, sao cô lại đem cảm xúc của mình đổ sang chồng với cái ý nghĩ đàn bà còn bị mê hoặc, huống gì đàn ông. Nếu đúng là Bào ngoại tình, Nương cần có chứng cứ, ít nhất là một lần bắt quả tang thì mọi thứ mới phơi bày rõ ràng, mạch lạc, khỏi khúc mắc, đau khổ trong nhau. Nghĩ là làm, Nương cần một lần bắt quả tang.

Sáng, Nương nghỉ làm, chồng ra khỏi nhà trước, Nương trang điểm rồi theo sau giữ một khoảng cách nhất định. Bào đến công ty rồi ở hẳn trong ấy đến trưa, giờ ăn cơm Bào cũng không ra ngoài. Nương ngồi ở quán cà phê đối diện công ty uống đến gần sáu ly nước để đợi. Năm giờ chiều, Bào ra khỏi cơ quan, Nương lập cập chạy theo. Bào không về nhà, Nương nhếch môi, mình chả nghĩ sai bao giờ, giờ này là giờ ngoại tình còn gì? Bào chạy quanh quẩn nhiều ngỏ hẻm, chạy qua nhiều khúc cua, Nương phải cố gắng lắm mới không bị mất dấu. Nhưng rồi tới một khúc cua rẻ vào một con đường vắng, Nương bị mất dấu. Không còn cách nào khác là Nương lui lại đầu đường và đợi ở đó, thế nào thì Bào cũng sẽ phải trở ra.

Gần mười một giờ đêm, có ánh sáng của đèn xe pha vào mắt đang chực muốn sụp xuống vì mệt của Nương. Nương vội lùi xe, kéo khẩu trang lên gần phủ mắt. Bào chạy ra cùng cô gái mặc váy hoa. Không ai khác chính là cô gái mà Nương gặp ở bữa tiệc nọ. Hai người lướt nhanh qua Nương. Nương vội vàng nổ máy đuổi theo. Nương chỉ muốn đuổi kịp, để gọi Bào, để cho Bào biết rằng từ nay anh chẳng có gì phải chối cãi nữa, rằng mọi thứ đã rành rành ra đó rồi. Nhưng Nương chạy mãi mà không kịp, khi rồ ga gần sát xe Bào thì Nương có cảm giác lành lạnh. Khi Bào đưa cô gái qua hết những khúc cua ngoằn ngoèo để ra đường lớn thì Nương gần như chạy xe ngang họ, Bào tuyệt nhiên không nhìn thấy Nương, chỉ có cô gái nhìn sang Nương, nhoẻn miệng cười. Lạy chúa! Vẫn cái cười đó, cái cười mà Nương gặp từ bữa tiệc, cái cười đã ám ảnh cô tới mức cô đã đẩy chồng về phía cô ta rồi lại tìm mọi cách để giành giật chồng về ình.

Nương nghiến răng, định gọi Bào thì bỗng nhiên Bào vọt ga nhanh hơn, bỏ mất Nương một đoạn chừng trăm mét. Cô gái lại quay mặt ra sau, nhìn Nương rồi lại nhoẻn miệng cười. Sau cái cười đó, Nương thấy chân tay mình tê cứng, môi miệng cũng cứng ngắc, khi thấy từ sau cổ cô gái, những vệt đỏ, loang dần loang dần, dù là chiếc váy hoa nhiều màu sặc sỡ, Nương cũng nhận ra cái thứ đang loang dần từ cổ và vai cô gái đó chính là máu, xe vẫn chạy, Bào vẫn phóng xe như điên, cô gái ngồi sau vẫn bình thản, chỉ có tay chân của Nương là cứng đờ, mọi thứ bay vèo vèo qua trước mặt Nương, Nương không còn cảm giác mình đang chạy xe, chỉ là sự hoảng loạn, lo lắng cho sự an nguy của Bào. Nương đang đuổi theo Bào, chỉ để hỏi rằng hai người đã bị tai nạn ở đâu? Tại sao không đến bệnh viện mà chạy xa đến vậy? Mà nếu không phải cô gái đã bị tai nạn thì cô cũng muốn gọi cho Bảo dừng xe, vì có thể cô gái đang nguy hiểm đến tính mạng.

Nhưng Bào không hạ ga, Bào chạy như điên, cái tốc độ mà Nương chưa bao giờ nhìn thấy Bào chạy. Nương hết xăng, xe tắt máy, bừng tỉnh khi thấy xe của Bào và cô gái lao vút đi trong đêm tối. Nương từ từ hình dung hết những thứ vừa xảy ra, nhìn đồng hồ điểm đúng 12 giờ đêm, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái, không một bóng người, không thấy ngôi nhà nào, có lẽ Nương đã ra khỏi thành phố khá xa, nhưng đang ở đâu thì Nương không biết. Nương bắt đầu thấy sợ, cô lấy điện thoại ra gọi, nhưng bấm mãi mà điện thoại không lên nguồn. Cô thụp xuống, hai tay run run cố cầm cho chắc điện thoại rồi ngồi khóc hu hu. Cô cầu mong được nhìn thấy người, thấy một chiếc xe tải hay một thứ gì đó do con người điều khiển, chỉ để hỏi rằng mình đang ở đâu. Nhưng hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, cô không thấy bất cứ điều gì như cô mong đợi. Sự sợ hãi bắt đầu như tan biến dần, nhường chỗ cho bản năng tồn tại, cô đứng dậy, dắt xe đi về hướng có nhiều ánh sáng hơn. Tiếng ếch nhái kêu dường như mỗi lúc một lớn hơn. Đôi giày cao gót làm chân Nương phồng rộp lên, nghe đau nhót tới tận tim.

Đi chừng nửa giờ, từ phía đối diện với Nương có ánh pha của đèn xe, không phải là một đèn mà tới hai đèn, có thể là hai chiếc xe máy chạy song song hoặc một chiếc xe lớn, dù là gì cũng được, Nương thấy như mình vừa bắt được vàng, Nương đá chân chống xe rồi đợi, nhất định Nương phải đón họ lại, chỉ để hỏi đường ra khỏi nơi này, mà nếu họ có tốt bụng hơn, thì có Nương một ít xăng, chứ giờ trời chuyển sang nửa đêm về sáng, ít nhất cũng phải năm giờ sáng, may ra mới có người bán mua với Nương.

Hai cái xe tiến lại gần hơn, Nương nhìn rõ dần, không phải hai chiếc xe máy mà nó là một chiếc xe tải, Nương thở phào. Cô ra giữa đường đứng vẫy tay, chiếc xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn, trên xe bước xuống hai người đàn ông, một trẻ một già, Nương đoán đó là hai cha con. Người đàn ông già có vẻ cẩn thận hơn, ngó xung quanh trước khi tiến đến hỏi Nương “chuyện gì?”, Nương vừa mừng vừa run, cô lắp bắp “dạ, dạ…xin lỗi ông, tui muốn hỏi tui đang ở đâu, tui… tui... đi lạc, xe hết xăng….”, gã thanh niên trẻ hơn bước thêm bài bước lại gần Nương “nhưng cô đi đâu mà lạc?”, Nương lắc đầu ‘tui… tui… hổng biết!”. Hai người đang ông cười lớn, người lớn tuổi lại hỏi “chuyện khó tin, không biết đi đâu sao biết mình lạc?”. Nói rồi ông quay người đi về phía xe, Nương lắp bắp “thưa… thưa ông làm ơn, chỉ đường tui ra khỏi đây, hay là cho tui xin ít xăng… mà … mà ông cho tui đi cùng với, giờ tui sợ lắm, tui hổng dám đi nữa!”. Nương sợ thật, dù không biết hai người đàn ông này là người ra sao, nhưng nếu họ lại bỏ cô giữa đêm ở cái nơi mà cô không biết là đâu này thì giống như giết chết cô, lặp lại cái cảm giác kinh hoàng vừa xảy ra cho cô lần nữa. Gã trai trẻ hơn bỏ đi “thôi đi, ba! Nửa đêm nửa hôm có đàn bà con gái đòi đi nhờ xe, ai biết có giăng bẫy đâu đó không, cha con mình chết như chơi!”. Nương nghe nói thì hoảng hồn nói gần như lạy lục, giọng sắp khóc “tui năn nỉ 2 ông, cho tui đi cùng, bỏ cái xe máy lên dùm tui với, giờ mà hai ông bỏ tui lại đây, chắc tui chết vì sợ!”, người đàn ông lớn tuổi có vẻ mủi lòng, nhìn ra sau thùng xe, nói con “mày dẹp mấy cái rọ, bỏ xe máy lên cho cổ đi, nhưng mà, cô ngồi sau thùng xe nghen, trước hết chỗ rồi, thông cảm, phải đảm bảo an toàn cho tụi tui, đằng sau thì hơi dơ một chút, vì xe chở heo đi bán mà!”. Nương nghe vậy thì cám ơn rối rít, vội vàng chạy về phía xe như sợ hai người đàn ông kia đổi ý.

Cái thùng xe khá bít bùng, mùi phân heo xộc ngay vô mũi, nhưng giờ thì thậm chí ngồi trên đống phân Nương còn cảm ơn nữa chứ nói gì là ba cái mùi lẻ tẻ, coi như mình đã thoát. Nương tựa người ra thành xe, rùng mình nhớ tới Bào, nhớ tới cô gái mặc váy hoa, nhớ tới hình ảnh máu loang ướt đẫm vai và lưng cô gái. Nương lấy điện thoại ra bấm, cô cố gắng bấm nhiều lần, vì rõ ràng không thể là hết pin, vì cô mới sạc ban sáng, mà điện thoại cô có khi bốn năm ngày không sạc pin vẫn không tắt nguồn. Tới khi mệt và bực quá, Nương ném mạnh điện thoại xuống sàn xe, giật mình vì màn hình điện thoại bỗng nhiên bật sáng. Trên loa điện thoại phát ra câu nói quen thuộc “thuê bao quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được….”, Nương điếng hồn cầm điện thoại mình lên, thấy hiện trên màn hình dòng chữ “đang gọi CHỒNG”. Nương chưa hề mở được điện thoại lên, sao nó lại gọi vào đúng cái số Nương cần gọi? Gã thanh niên trẻ trước đầu xe nghe vạch tấm bạt, thò đầu vào hỏi làm Nương gần như hét lên, đánh rơi điện thoại lần nữa, “có chuyện gì sao?”,gã thanh niên chờ đợi câu trả lời, Nương lắc đầu “không, không có gì!”, gã thanh niên tỏ vẻ thương cảm “ngồi mình buồn không, tui ra ngồi chung nói chuyện?”, không đợi Nương kịp trả lời, gã thanh niên trẻ vạch tấm bạt, lòn người chui ra sau thùng xe, đá văng mấy cái rọ vào góc sau, đi lại ngồi gần bên Nương.

Mùi phân heo cộng thêm mùi thuốc lá từ áo quần của người đàn ông lang bạt làm Nương muốn ói, nhưng trong bóng tối nên gã thanh niên không biết cảm giác của Nương, gã hỏi “tui hỏi thiệt, sao cô lại tới được đây?”, Nương không trả lời gã thanh niên, giờ, Nương phải trả lời gì đây, trả lời rằng mình đi bắt ghen, bị chồng bỏ lại bơ vơ chỗ này sao? Hay là bịa ra một câu chuyện khác, rõ ràng, với câu hỏi đó, Nương không đủ thời gian để bịa một câu chuyện, mà Nương cũng không còn tâm trí đâu mà bịa một câu chuyện khác cho có lý với hoàn cảnh hiện tại của Nương. Nương trả lời bằng một câu hỏi khác để đánh trống lảng “xe anh đi đâu?”, gã thanh niên cười “đi gom hàng, lát chở ra lò mổ”, “nhưng ý tui là giờ tui đang ở đâu?”“Tây Ninh!”, Nương há hốc “Tây Ninh?”, Nương lặp lại hai từ Tây Ninh nghe khô khốc, gã thanh niên cười “gần tới biên giới Mộc Bài, không phải đường tỉnh lộ, giờ còn đang sâu trong quê lận!”. Nương nhẩm tính, từ lúc 11 giờ đêm qua Nương còn ở thành phố, sao tới 12 giờ là lạc mất Bào mà Nương có thể tới tận Tây Ninh? Không thể nào là Tây Ninh được, Nương cười “anh giỡn tui chi vậy? Sao mà đang ở Tây Ninh được? làm sao tui về nổi với cái xe cà tàng của tui?”, gã thanh niên cười ha hả “về chi em, ở lại luôn với anh!”. Nương hốt hoảng nghe giọng nói chuyển đổi sang giọng của một gã trai tầm thường đang muốn có hành vi đê tiện. Nương đứng bật dậy “tui hổng giỡn, cho tui đi nhờ thì cho, hổng cho thì bỏ tui xuống xe”, gã thanh niên chụp lấy cổ tay Nương, Nương cố vùng ra nhưng không được, gã lại chụp thêm một tay nữa của Nương rồi bẻ ngoặt hai cánh tay ra sau, cười man dại “chìu anh đi, không có cách gì thoát ra đâu!”. Nương bị ấn vào thành của thùng xe, xe vẫn chạy, xóc khiến ôi cô đập vào thành thùng xe, tướm máu.

Gã hôn lên sau gáy cô, rồi đưa môi ra trước mặt cô, nhưng cô vùng vẫy khiến ôi gã không tài nào chạm vào môi cô được. Gã thanh niên bất thình lình quật mạnh làm cô té xuống sàn xe, hai tay vẫn bị bẻ ngoặc ra sau, gã ngồi lên người cô, một tay gã nắm hai tay cô, tay còn lại gã lòn dưới váy cô rồi giật mạnh làm rách chiếc quần lót. Gã cười “cô em mặc váy, thật hấp dẫn!”. Gã trai lại đưa môi lên gáy cô và ra mang tai rồi đưa về trước mặt cô. Lần này, Nương như chợt nghĩ ra điều gì, cô thoáng rùng mình, nhưng im lặng để cho gã hôn, được thể, gã hôn tới tấp lên tóc lên mặt cô, tay kia kéo váy cô lên ngang hông. Nương kêu lên những tiếng kêu nho nhỏ khiến cho gã thanh niên phấn khích, hắn quên việc mình đang cưỡng hiếp một cô gái, hắn thả luôn hai tay Nương ra, lật người Nương nằm ngửa. Nương chống được, bật ngồi lên, nhưng hắn đẩy Nương nằm xuống, khi bị đẩy lưng chừng, Nương đặt môi mình lên môi hắn. Gã thanh niên hôn cô điên cuồng. Bàn tay Nương bắt đầu bạo dạn xuống phần cơ thể dưới của gã. Không ngần ngại gì, hắn cởi phăng đồ ra trong khi môi vẫn dính chặt lấy môi Nương. Nương từ từ ngồi xuống, đưa miệng vào bộ phận của hắn, khi hắn phát ra những tiếng rên rỉ sung sướng thì Nương bất ngờ cắn phập vào đó, dùng hết sức bình sinh để nghiến, hắn thét lên đau đớn, nắm tóc của cô mà lôi ra, nhưng hàm răng của Nương vẫn cắn chặt lấy bộ phận sinh dục của gã, tới khi chiếc xe đột ngột dừng lại, làm gã té nhào, Nương cũng té theo thì Nương mới nhả của hắn ra, miệng Nương tanh mùi máu, gã trai bất tỉnh.

Người đàn ông lớn tuổi hơn, cha hắn vén tấm bạt, ngó vô hỏi ‘chuyện gì vậy?”, ông bấm đèn pin rọi vào, thấy con trai nằm bất tỉnh, miệng Nương đầy máu, ông hiểu ra ngay vấn đề, trong lúc hoảng loạn, Nương may mắn quơ được cái liềm nằm dưới sàn xe, đưa lên cao thủ thế. Người đàn ông mở cửa thùng xe, bên ngoài, trời đã gần sáng, tuy nhiên xung quanh Nương vẫn không thấy có căn nhà nào cũng như không thấy ai. Ông già hỏi “mầy làm gì nó? Đồ con chó, cứu mầy mà mầy trả ơn vậy đó hả?”. Ông già đứng dưới đất, chụp lấy cuộn dây thừng để trói heo, quất mạnh vào chân Nương, lôi xuống, Nương bị bất ngờ, tay cầm liềm bị đánh vào thùng xe rơi xuống đất, Nương rơi ra khỏi thùng xe, té ngửa xuống đất, cái liềm rớt xuống trước, cổ Nương bị cắm phập vào đó. Nương nhìn xuống chân mình, chiếc váy hoa phủ xuống tới đầu gối, Nương nghe ướt ở lưng, máu đã thấm đã loang dần xuống lưng. Chiếc xe tải bỏ đi, chiếc điện thoại được ném lên người cô, không có một bóng người nào quanh đó.

Hôm qua, Nương đã mặc chiếc váy này nguyên cả ngày mà vẫn không hay biết, cái váy mà Bào đã tặng Nương trong ngày sinh nhật của ba năm trước.

Nương nhớ đến cô gái mặc váy hoa đã nhoẻn miệng cười với Nương, có một lần hai người đi qua nhau, Nương đã nghe cô gái ấy thầm thì rằng “đừng ghen tuông, ghen tuông sẽ giết chết cô theo nhiều cách!”.

Nương nhớ Bào từng nói rằng “làm ơn tin anh…”

Bào nằm ở sofa, nhìn đồng hồ, lẩm bẩm “đi đâu mà giờ này không về?”, đêm qua anh đã say, rồi đã đến nhà cô gái đó, nhưng Bào về rất sớm vì anh luôn có cảm giác lạ lạ, sao đường đến nhà cô gái và đường về nhà rất quen.

Sáu giờ, điện thoại reo, số điện thoại của vợ, nhưng người ta báo vợ anh đã chết ở một cánh đồng tận Tây Ninh.

Bào chết sững khi nhìn thấy vợ mình với chiếc váy hoa, bị cái liềm cắm phập vào gáy, máu lênh láng. Nhìn sang chiếc yên xe máy của mình, Bào thấy có rất nhiều máu đã khô. Cảnh sát không hỏi gì, còng tay Bào giải đi. Mắt Nương vẫn mở thao láo như nhìn theo. Bào ngoảnh lại, thấy Nương đang nhoẻn miệng và cười.

6.2011

25.Ông già không biết bay

Truyện ngắn của Đặng Hải Quang

Truyện kể rằng từ xưa, xưa lắm, con người trên trái đất này sống rất hạnh phúc. Không có chiến tranh, không có đói nghèo. Nụ cười không bao giờ mất trên mặt con người, dẫu đó có là đứa trẻ hay cụ già, nam thanh hay nữ tú, thậm chí ăn mày đi xin tiền cũng luôn phải cười toe cười toét.

Thuở đó, trên xứ sở này tồn tại rất nhiều phép màu mà có lẽ bây giờ chúng ta không thể lý giải nổi. Người ta có thể đi trên mặt nước, có thể nói chuyện mà không cần mở miệng… Nhưng đặc biệt nhất là phép Thăng Thiên. Đây có lẽ là phép thuật của tự nhiên thì đúng hơn. Theo đó, con người cứ khi về già, sớm hay muộn rồi sẽ bay lên trời. Không một ai biết được các cụ già đó bay lúc nào và bay đi đâu. Đã có rất nhiều chiến dịch quy mô được đầu tư nhiều tiền của chỉ để tìm hiểu, nhưng cuối cùng kết quả cũng chỉ là con số 0 tròn trĩnh. Ai đến tuổi phải bay vẫn cứ bay, nói chính xác là muốn không bay cũng không được, và cũng chẳng có cụ nào về báo cáo lại cả (Ghi chú thêm: Các cụ đều bay vào sinh nhật năm các cụ tròn chẵn chục tuổi).

Nhưng có lẽ tạo hóa lại thích trêu ngươi con người. Ngài luôn có năng khiếu trong việc tạo ra sự khác biệt. Trong khi gần như toàn bộ thế giới, ai cũng đến ngày phải bay, thì có một cụ già không như thế. Ông cụ sống ở ngoại thành, ngày ngày lấy việc trồng rau tưới cây làm thú tiêu khiển. Năm 80 tuổi, cụ tưới cây. 90 tuổi, cụ vẫn tưới cây. Từng này tuổi mà còn chưa bay, tất nhiên người ta phải bắt đầu chú ý rồi. Năm 100 tuổi, phóng viên các nước rầm rộ đến phỏng vấn, tay cụ vẫn đang cầm xô nước. Năm cụ 110 tuổi, thế giới tổ chức cầu truyền hình trực tiếp, mời cụ lên phát biểu (có lẽ họ muốn chứng kiến giây phút cụ thăng). Cụ mặc quần áo thật đẹp, tay phải cầm chậu bonsai bước lên bục. Rồi với vẻ mặt rất chi là hớn hở, cụ đọc bài thơ chúc thọ ông cố nội sáng tác cách đây tròn 100 năm, trong khi tay trái vẫn cầm bình xịt bóp đều đều.

Vậy mà cuối cùng, cụ vẫn đứng đó.

Cả thế giới thất vọng!

Phải rồi, không thất vọng làm sao được khi mà ngày hội tổ chức quy mô thế mà cụ lại không bay. Rồi người ra phái các nhà khoa học, giáo sư tiến sĩ dày dặn kinh nghiệm đến nhà cụ, hết tiêm tiêm chọc chọc rồi lại hút hút nạo nạo.

Xét nghiệm đến chín tháng mười ngày mà vẫn không thu được kết quả khả quan nào, công việc được bàn giao cho các nhà tâm lý học.

Có người phỏng đoán, chắc tại cụ vẫn đang yêu. Con người ta khi yêu thì trẻ mãi, mà trẻ thì bay làm sao được? Giả thiết này nhanh chóng bị gạt bỏ, bởi cụ sống một mình suốt bao năm qua. Và nếu có người yêu, thì bà này cũng đã “bay” từ lâu rồi. Cụ yêu người yêu đến vậy, sao lại không bay theo được kia chứ?

Có người lại cho rằng, chắc đất nhà cụ có nhiều sắt. Cụ ăn đồ cây nhà lá vườn, nhiều sắt quá nên bị trái đất “hút”. Nhưng một lần nữa giả thiết này bị vỡ vụn, khi có một cụ già tình nguyện làm vật hi sinh để người ta buộc một quả tạ sắt nặng nửa tấn vào người. Rốt cục thì cụ già này vẫn bay- sau khi tặng lại cho thế giới một cái chân giả bằng ngà voi rất đẹp.

Khi cố gắng mãi mà không thu được chút kết quả gì, con người ta bắt đầu chán. Dần dần, mọi người coi chuyện cụ không bay được là rất đỗi bình thường. Chẳng có tham quan, cũng chẳng có nhà lưu niệm như hồi đầu nữa. Nhưng dù gì, thì mấy thứ đó cũng chẳng liên quan đến cụ. Ngày ngày cụ vẫn trồng rau tưới cây, chủ nhật thì đi xem kịch. Người ta đặt cho cụ biệt hiệu “Ông già không biết bay”. Và đúng như vậy, cụ cũng vẫn nhất quyết không chịu bay.

* * *

Thời gian cứ thế trôi đi, mọi chuyện về cụ già không biết bay đã trôi dần vào quên lãng. Cho đến một ngày (khoảng 4-500 năm sau), một chàng phóng viên năng nổ đọc được trong một thư tịch cổ có nói đến một “Ông già không biết bay”. Thấy lạ, anh cất công nghiên cứu trong các thư viện, tìm hiểu tất cả mọi nơi. Ông trời không phụ người có lòng, cuối cùng anh đã tìm ra “Ông già không biết bay”.

Trong vai một nhà trồng cây cảnh, anh dọn đến sát nhà cụ già. Rồi anh lân la làm quen, hỏi han về cây này chậu nọ(tất nhiên là ra vẻ vẫn không biết đây là cụ già không biết bay). Dần dần, hai người quen thân, tính tình lại rất hợp nhau nên nhanh chóng trở thành đôi tri kỷ. Cụ già nhận anh phóng viên làm cháu nuôi, rồi do cả hai đều sống một mình, anh dọn luôn đến nhà cụ sống. Mọi chuyện diễn ra hết sức suôn sẻ. Tuy vậy nhất thời anh phóng viên vẫn chưa tìm được nguyên nhân “không bay” của cụ.

Nhưng một lần nữa ông trời lại không phụ người. Sau 7 năm kiên trì sống với cụ già, anh đã lần ra manh mối. Anh nhận thấy cứ đến ngày rằm tháng 8 hàng năm, trong khi anh ngủ, cụ lại ra cái giếng ngoài sân sau một lát mới về.

Hóa ra là cụ tới đó tắm rửa!

Anh lạ lắm, vì có ai tắm buổi đêm đâu? Càng tìm hiểu anh càng thấy lạ lùng, bởi lẽ nước cụ dùng để tắm là rượu chứ không phải nước thường. Bí quyết là đây chăng? Theo các sách khoa học mà anh đã đọc, ánh sáng mặt trăng rất có ảnh hưởng đến con người, nhất là đêm rằm. Lại thêm rượu nữa vào thì…

Mừng như bắt được vàng, ngay đêm hôm đó anh rời nhà mà không một lời từ biệt. Sáng hôm sau, trên mặt tờ báo uy tín nhất thế giới đã đăng một cái tít rất to “Bí mật về ”Ông già không biết bay” đã được khám phá!”, “Bạn có muốn là người không biết bay?”… Thế giới lại rầm rộ bàn tán về cụ, người người đổ xô đến nhà cụ, các hãng truyền hình liên tiếp cho người đến phỏng vấn cụ. Không như những lần trước, lần này cụ đóng cửa, từ chối không trả lời.

Nhưng cụ có không trả lời cũng bằng thừa. Vì bí mật đó đâu còn là của cụ nữa? Người ta còn thầm trách cụ ích kỷ, có bí quyết mà cứ giữ mãi không chịu san sẻ ọi người. Trách thì trách, nhưng cái bí thuật đó không ai là không sử dụng. Các cụ già thì khỏi nói rồi. Thế giới tràn đầy hạnh phúc, ở nhà với con cháu chả sướng sao, tội gì phải bay chứ? Các bác trung niên cũng phải tắm cho chắc ăn, vì nhỡ đâu chưa đến rằm mà mình đã bay rồi thì sao? Bọn trẻ kháo nhau, tắm đê, càng nhiều càng tốt, tắm ít thì bay sớm, tắm nhiều thì mãi không bay.

Cuối cùng, cả thế giới đều thực hiện y hệt cái điều cụ già đã làm đêm rằm.

Còn anh phóng viên thì sao? Sau loạt báo gây chấn động đó, anh trở nên nổi tiếng. Rồi từ một phóng viên quèn, anh được thăng lên phó tổng, rồi tổng biên tập. Anh trở nên rất có uy tín, được vợ yêu bạn mến, người người tôn thờ (đến bí mật lớn thế anh còn chả giữ ình thì rõ là vĩ đại rồi còn gì). Rồi anh ứng cử vào quốc hội làm nghị sĩ, chẳng bao lâu sau đã trở thành tổng thống. Cuộc đời với anh từ đó rải toàn hoa hồng. Dĩ nhiên, do vẫn muốn tiếp tục làm ra tiền để mua hoa hồng, anh cũng đã thực hiện cái bí quyết “không bay” đó từ lâu. Thậm chí rằm tháng nào anh cũng tắm, mà phải tắm bằng loại rượu hảo hạng nhất thế giới.

Không hổ danh là đệ nhất bí quyết trong thiên hạ! Quả nhiên cuối cùng, không có ông già nào bay thêm nữa. Có điều, không bay, nhưng các ông già cũng không sống thêm được ngày nào cùng con cháu. Các cụ cứ đến ngày là nằm lăn ra đó, không chịu mở mắt. Rồi đến khi người các cụ bốc mùi làm làng xóm không thể chịu được nữa, con cháu đành phải đào tạm một cái lỗ đặt các cụ vào đấy. Không chỉ các cụ ko chịu mở mắt, đến các bậc trung niên, rồi thanh niên cũng có người mắc phải “căn bệnh” tương tự. Người ta gọi đó là bệnh “chết”, một bệnh mà y học phải bó tay. Mọi phép màu con người có được đều biến mất. Người “chết” trên thế giới ngày càng nhiều. Chỗ để chôn không có, tiền để làm lễ an táng cũng kẹt, các nước trên thế giới phải đánh nhau để dành đất, dành của cải. Thế giới chìm vào chiến tranh…

* * *

- Quả là thảm họa! Không bao lâu sau, cả nền văn minh phát triển vượt bậc phút chốc đã tiêu vong!

Kể đến đây thì cụ già ngừng lại. Cả hai không nói hồi lâu. Tôi nhìn cụ, thấy cụ ra chiều vẫn suy nghĩ mông lung lắm. Một lúc sau tôi mới dám mở miệng:

- Chuyện chỉ có thế thôi hả cụ? Thế còn ngài tổng thống… ý cháu nói là anh phóng viên ấy ạ?

- Ngài tổng thống hả? Nghe đâu ngài là một trong những người đầu tiên ra lệnh hủy diệt quốc gia láng giềng. Nhưng nước láng giềng chưa bị hủy diệt, ngài đã bị ám sát…

- Vậy còn ”Ông già không biết bay”, ông ấy biến đi đâu hả cụ?- Tôi lại hỏi.

- “Ông già không biết bay? Ông ta mất tích không để lại dấu vết gì. Có thể ông ấy cũng đã “chết” như bao người khác. Bom đạn thế thì sống làm sao được…

Rồi cụ già thở dài một cái. Cả câu chuyện cụ kể ra sống động và bi kịch như cụ đã từng chứng kiến vậy. Trán cụ hơi nhăn lại, trông đã già giờ lại càng già hơn. Có lẽ ý thức được mình không sống được bao lâu nữa, nên cụ đã kể lại chuyện này cho tôi. Nhưng câu chuyện này thật lạ, nó làm tôi cảm thấy có điều không hợp lý…

Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt đứt bởi một tiếng “cạch” khe khẽ. Cụ già đang đặt cây bonsai và cái bình xịt nước xuống bàn. Tôi chạy vội ra đỡ hộ cụ. Cụ cám ơn tôi, vươn vai một cách khỏe khoắn, làm người tôi cũng như giãn ra. Rồi cụ cười:

- Hôm nay là ngày rằm, cháu có thích tắm cùng lão không?

26. Những người sống quanh rừng

Truyện ngắn của Đỗ nhất Trí

Nửa đầu thế kỉ trước . Ông Sáu người làng Đồng Thịnh, đã nhặt được một đứa bé đỏ hỏn nằm dưới gốc cây chò hoang mọc cạnh sân đình . Ông Sáu mang thằng bé về, đặt tên là Rừng . Mười lăm tuổi thì chiến tranh xảy ra . Nó xin ông sáu đi theo Cách mạng . Đi vì chí lớn thì ít, mà vì thấy đám trai làng ra đi trước đó, có sự đưa tiễn của người thân và tiếng khóc sụt sùi, của bọn con gái mông to ngực nhọn . Lâu nay nó chỉ nghe thấy tiếng quát mắng chưởi rủa ào ào như cây đổ, thác chảy của ông Sáu, chứ có bao giờ thấy nước mắt đàn bà rỉ rả như lạch suối đầu nhà đâu . Nó ao ước được nhìn thấy những giọt nước mắt của con Lan . Con Lan cháu vợ ông Sáu, hơn nó ba tuổi, vú căng phồng, người mây mẩy nước da bánh mật, thường theo nó lên rừng lượm chai . Đi lượm chai mà vô tư không mặt áo trong, nên lom khom là mảng ngực động đậy, khiến cho tâm trí thằng Rừng điên đảo. Những buổi trưa hai chị em ngã lưng dưới gốc chò ngủ nghỉ. Thằng Rừng thường len lén nhìn hai quả đồi nhấp nhô theo nhịp thở của con Lan, mà mường tượng ra bao điều quái gở . Đêm nay, trong lúc dân làng thúc trống khua mõ vang lừng thì nó lôi thằng Rừng ra gốc chò hoang mọc ở sân đình đu đưa :

- Mày đi rồi ai dẫn tao lượm chai Rừng ?

- Chị đi một mình vậy

- Chị chị cái con khỉ ! tao với mày có bà con đâu?

- Nhưng Ba tui là Bác mà!

- Bác gác bụi tre -đồ con hoang …

Đôi mắt con Lan bỗng nhìn nó vùa xa xăm vừa dữ dội. “ Rừng!.. Rừng có thích không?” . Bực! bực! Tiếng nút áo bật ra mời gọi. Một mảng trắng mềm mại thơm lừng mùi mủ chai đang lừng lững tiến tới đổ sập lên người nó….Thằng Rừng chưa kịp hoàn hồn, thì tiếng kẻng, tiếng gọi.. từ sân đình thúc lên dòn dã … Con Lan vừa cài lại nút áo ngực vừa khóc tức tưởi : “ Em sẽ đợi anh về ...”

Ngày đất nước thống nhất . Thằng Rừng ễnh ngực về làng. Trước tìm con Lan sau tìm ông Sáu . Ông Sáu chết trong một trận chống bọn Đại Hàn càn phá mảnh rừng, còn con Lan đã có chồng. Chồng Lan là một cảnh sát áo trắng chế độ cũ . Ông Kí chủ tịch xã phát hiện thằng Rừng là bộ đội phục viên, nên cho làm xã đội trưởng. Thằng Rừng chỉ huy đám du kích choai choai ban ngày phụ giúp ban quân quản, còn ban đêm thì đi mật phục. Đêm nào cũng vậy, thằng Rừng luôn có mặt ở gốc chò hoang cạnh nhà con Lan . Nhiệm vụ quan trọng của nó là tóm sống thằng Thái, kẻo nó bị bắn chết vì tư thù cá nhân . Một tuần trôi qua .Thằng Rừng chẳng phát hiện điều gì ngoài việc con Lan khuya khuya ra góc vườn ngồi xả nước . Nghe vậy, Ông Kí chủ tịch xã trầm ngâm một lúc rồi bảo : “ Không mai phục nhà con Lan nữa !”

Hai tuần không nhìn con Lan ngồi xả nước, thằng Rừng thấy nhớ, nó rủ ông Kí nhậu . Đến lít đế thứ hai ngà ngà say . Ông Kí nhìn xoáy vào mặt thằng Rừng hỏi :

- Mày nhớ nó hả Rừng ?

Tai thằng Rừng nóng ran, nó chớp mắt bẽn lẽn nhìn ông Kí đang phừng phừng vì rượu, tay nó run run dốc mạnh ly rượu vào cổ họng, một cảm xúc dâng trào, nó bỗng mạnh dạn nói :

- Bớt giỡn đi ông Anh? mấy mươi năm vắng bóng đàn bà, thằng nào thấy gái mà không hực. Chỉ cái tội chính trị nên thằng em này phải dừng !

- Mày nói hay đấy? Ông Kí gật gù cười . Làm cái thằng đàn ông mà không hực thì có nước… Ông Kí giơ tay ra hiệu phăng cái của ấy . Nhưng cái chính trị . Mẹ kiếp! Phức tạp lắm, đó là chuyện của anh . Còn mày, mày biết không? thằng chồng con Lan nó quơ mấy ả đàn bà ở xã này hả ! Một, hai, ba... Vậy mà tao với mày ngồi đây - chính trị với chính triết . Uống đi thằng em! Đã chiến thắng thì phải thắng tất cả…dô đi !

Đến lít đế thứ tư thằng Rừng cụng li hoài mà chẳng đụng ai . Đám du kích choai choai đã quắc cần câu, còn ông Kí thì biệt dạng tự hồi nào . Nó rời trụ sở, cái đầu vốn dĩ giàu trí tưởng tượng, giờ được rượu và những lời nói của ông Kí phối thêm, nên cứ nhẹ tênh bay bổng . Đầu ấy, không dẫn đôi chân về nhà, mà mò đến gốc chò hoang, chờ xem con Lan xả nước . Nhưng nó không chờ được lâu, cơn buồn ngủ đã hạ gục nó. Trong giấc ngủ nó thấy nó cùng với con Lan mang gùi đi lượm chai. Chai nhiều lắm, đung đưa những cục chai móng treo lủng lẳng khắp các nhánh, cành trên cao, nó với tay bơi vào khoảng không . Những cục chai không trong như màu hổ phách, mà trắng ngần ngận đang trôi dần về phía nó .. Lan đấy ư! Em đây! Sao em không chờ anh … Chờ cái con khỉ ? …Em là đàn bà chứ có phải thần tiên gì mà chờ ? Sao Rừng về mà không ghé.. thằng Thái nó bỏ đi biệt tăm rồi, đừng dò tìm nó như chó săn nữa … Rừng có phải là đàn ông không? Đàn ông gì mà không hực.. .

Thằng Rừng hoảng hốt ngồi bật dậy, mình đẫm mồ hôi . Đàn ông mà không hực! Nó đưa tay dò xuống đùi -Mẹ kiếp! nói sao giống ông Kí vậy! Nó lẩm bẩm, nhìn về phía ngôi nhà của con Lan . Phía ấy, trăng thượng tuần đang ngời lên một thứ ánh sáng lành lạnh . Không gian lặng ngắt bỗng vỡ ra một tiếng động đâu đó. Trời ạ!.. một thân hình lờ mờ đang lom khom chui ra từ nhà con Lan, nó hoảng hốt với tay ra sau lưng lấy khẩu súng, rồi chồm dậy lao đến phía cái bóng đen kia, nhưng đã bị rễ cây chò làm cho vấp ngã, đầu va xuống đất . Khi tỉnh dậy thằng Rừng chỉ thấy có một mình con Lan đang ngồi bên cạnh nó . Hoảng sợ thằng Rừng hỏi dồn dập . Con Lan không trả lời chỉ thút thít khóc. Nó tức mình chửi bới loạn xạ một lúc, rồi bỗng dưng ôm chầm lấy con Lan, mà kể tất cả những nỗi niềm trước đây của nó .

- Hãy đi với tôi !

- Đi đâu?

- Lên rừng lượm chai như khi xưa vậy!.

- Thật hôn!.

- Thật .

Cây chò hoang xù xì với những chùm rễ ngoằn nghèo đủ hình thù, bò lên mặt đất như những con rắn quái dị, đã chứng kiến cảnh thằng Rừng làm đàn ông. Không hôn hít vuốt ve, mà ào ào đổ xuống con Lan như một súc gỗ chò bị đốn ngã. Gió từ suối Lạnh thổi u u, đưa hơi nước rờn rờn lạnh. Trăng soi qua kẽ lá một thứ ánh sáng bàng bạc, không gian thơm lừng mùi mủ Chò. ..

“Bỏ Đảng hay là bỏ con Lan?”. Ông Kí trừng mắt nhìn thằng Rừng . Đời thằng Rừng chỉ có hai người mà nó thương yêu nhất . Đó là ông Sáu và con Lan . Ông Sáu thì chết rồi . Còn con Lan, chồng không về, mà cái bụng cứ lùm lùm ngày càng to biểu nó bỏ sao đành, vả lại như lời ông Kí nói . Cái chính trị ấy đâu phải là của nó . Nó là rừng, là mủ chai, là trái ư .. Thôi thì cứ cởi bỏ cái áo xã đội trưởng, mà dẫn con Lan về ngôi nhà cũ sinh sống.

Vài tháng sau con Lan lâm bồn . Đấy là một đêm kì lạ . Một cơn lốc mạnh đi ngang qua. Không ngôi nhà nào sập, không ai thiệt mạng . Cơn lốc chỉ bứng bay cây chò cổ thụ nơi sân đình. Trong tiếng hú cuồng nộ của thiên nhiên ấy, con Lan đã oằn người hạ sinh ra một đứa bé . Đứa bé khỏe mạnh nhưng mặt đầy những u nần tựa như những cục cức gà mà dân lượm chai gọi là chai cức gà .Thằng Rừng đặt tên nó là cu Gà . Thầy Tâm Quả một thầy cúng ở làng nhìn mặt cu Gà Bảo : “ Ngữ ấy, sống tha hương thì vượng, gần nhà vướng đạo tặc ” . Mặc cho lời phán . Thằng Rừng vẫn yêu cu Gà tha thiết .

Cuộc sống vui vẻ được vài năm thì thằng Thái trở về . Sau khi trình cho chính quyền, những giấy tờ đã cải tạo tư tưởng xong . Thằng Thái đòi dẫn vợ con đi .Tại nhà thằng Rừng, trong lúc ông Kí phân xử thì bỗng dưng cu Gà chỉ tay vào ông mà thét : “Âm Tặc !” . Tiếng thét của thằng bé mới thôi nôi, làm ọi người giật mình . Ông Kí da mặt từ đỏ chuyển sang tái, rút súng ngắn nã lên trời, lau sậy từ mái nhà rơi xuống lả tả . Ông Kí chỉ tay vào cu Gà hét lớn : “Đồ cha con thằng phản động - Giặc mà đến thì phát súng đầu tiên tao sẽ nã vào đầu chúng mày, cút ngay !” .

Phát súng của ông Kí đã làm nhụt ý chí đòi vợ của thằng Thái . Con Lan thảng thốt nhìn bóng cha con cu Gà hút dần trong bóng chiều . Thằng Rừng lạnh lùng bảo: “Lá rụng sẽ về cội, mất đi đâu mà sợ” . Nói vậy, nhưng sau đấy ốm mấy ngày đêm, không ăn không uống . Con Lan chăm sóc thật chu đáo lựa đủ lời an ủi. Thằng Rừng dần dần hồi phục, nhưng đầu óc cứ lơ ngơ, tính tình khó chịu . Lúc ấy cả xã đang rậm rịch viết đơn tình nguyện vào hợp tác xã . Thấy vậy, con Lan cũng lăng xăng, cầm tờ giấy bảo thằng Rừng viết đơn . Thằng Rừng giật phăng tờ giấy, vo tròn ném xuống đất:

-Khéo vẽ, mình chả có tấc đất nào mà tình nguyện, không khéo mấy đứa nhiều ruộng nó cho là mình tham

-Tham sao được! Con Lan lớn tiếng - Ai đổ máu giữ đất cho bọn nó

-Không phải cô! . Thằng Rừng đáp lại. làm thế tôi không thích .Tôi ghét lão Kí .

- Ơ hay! Sao lại ghét lão .

Nói vậy, nhưng con Lan cũng nghe lời. Không vào hợp tác xã nên vợ chồng nó chỉ được nhận vài sào đất nằm cô lập mút tận bìa rừng . Không thuỷ lợi, không phân bón nên đành bỏ hoang, mà tìm cách sinh nhai khác . Vốn sinh ra từ rừng, thằng Rừng thuộc lòng từng gốc chò non, chò già, chò chỉ… Biết chỗ nào có chai đảo, chai móng, chai uông, chai cục . Sáng sáng vợ chồng mang gùi lên rừng tìm đến từng gốc chò, vạch từng chiếc lá rụng, lượm về những cục chai cức gà bán cho dân biển . Vậy mà no đủ . No đủ hơn cái hợp tác xã đất canh tác bạt ngàn, nhưng cha chung không ai khóc. Dân đói nghèo triền miên . Đói thì đầu gối phải bò!. Họ bỏ ruộng đồng theo vợ chồng thằng Rừng lượm chai .

Cánh đồng năm tấn thưa người làm . Ông Kí đâm lo, cho du kích chặn các nẻo đường vận động dân về đồng sản xuất . Thằng Rừng cười bảo : “ Ngăn sao được lòng dân . Xưa trốn được cảnh sát thì nay cũng trốn được kiểm lâm . Em coi lương bỗng mấy đồng mà thằng kiểm lâm nào cũng giàu? “

Vận động không được dân, ông Kí tức khí ghép tội thằng Rừng là lâm tặc, bắt giải về huyện . Tại huyện đường, thằng Rừng cãi tay đôi với ông chủ tịch huyện .

- Anh có biết tại sao trong vòng vài ba năm nay hết lũ lụt này thì lại lũ lụt khác, lũ lụt sau ghê gớm hơn lũ lụt trước không?

- Chuyện đó học sinh tiểu học cũng biết .

- Vậy tại sao anh phá rừng?

- Tôi mà phá ư!, dân làng tôi mà lâm tặc ư ?. Mấy người dân ốm nhôm ốm nhách nghèo xơ nghèo xác đấy lấy đâu mà có hàng trăm máy cưa, máy kéo gỗ . Những chiếc xe tải ngày đêm nối đuôi nhau chở gỗ ấy là của ai? Bọn nào thích chơi ngông xây nhà bằng gỗ mun gỗ trắc, bọn nào làm bàn ghế, trồng cây cảnh bằng gốc cổ thụ? . Dân làng tôi ư ? Đấy ! Ông hỏi ông Kí xem ... Ông chủ tịch huyện nghe vậy trầm ngâm một lúc rồi thả thằng Rừng về.

Sau vụ ấy ông Kí được điều lên huyện làm một chức vụ cao hơn . Còn ở rừng Đồng Thịnh, kiểm lâm phối họp với công an, du kích lùng sục, đào bới khắp nơi. Gỗ chôn dưới vồng khoai lang, dấu trong nhà, giả làm mộ chí… đều bị bới tìm thu giữ . Rừng trở nên yên ắng. Mấy thằng lâm tặc lặn xuống các quán bia ôm xả xú-pắp, dân nghèo lượm chai nén đói chửi thầm . Thằng Rừng cười bảo : “ Đấy chỉ là chiến dịch ..”

Rừng chưa thay được lá mới thì động trở lại . Năm nay được mùa ư . Những trái ư ngày trước chẳng ai thèm để ý, mùa trái chín rụng gặp nước nở tung bầy nhầy khắp cánh rừng, nay bỗng dưng có giá . Giá cao ngất ngưởng khiến cho người dân không còn xách gùi theo hướng gió để tìm lượm những trái ư chín già bay rơi rụng xuống đất nữa . Mà cả làng lều chõng,lương thảo cất trại tại chỗ, đốn ngã cả cây gục xuống mà hái, mà lượm . Chắt lép, khô, tươi bọn lái buôn mua tất . Thằng Rừng ngửa mặt lên trời hát:

.. Rừng đã có từ thời ông, thời bà

Rừng đã nuôi cha, nuôi mẹ, nuôi ta

Muôn loài trong rừng ta phải bảo vệ

Bắt con thú không được bắt con mẹ

Chặt cây khô không được chặt cây tươi…*

Hát vậy nhưng thằng Rừng vẫn lén dẫn vợ vào tận rừng sâu..nó tìm đến những cây ư to lớn mà thời chiến tranh nó đã từng che giấu nó . Vợ chồng nó hí hửng nhìn những cây ư to lớn sừng sững mang đầy những trái ư lũng lẵng đen kịt . Năm tạ, sáu tạ bằng một chiếc tay ga - vợ nó nhẩm tính …Một cơn gió nhẹ lào xào thổi qua, thả hàng ngàn cánh ư cái thì bay là là cái thì quay xoăn tít giữa khu rừng yên tịnh . Những đôi cánh ư to bằng hai ngón tay dài cả gang màu cánh gián quần lượn quấn quít dìu nhau bay xuống như những cặp tình nhân. Đã làm cho con Lan hứng tình ôm chặt lấy thằng Rừng . Không kịp suy nghĩ, hai vợ chồng nó quấn riết lấy nhau giữa khu rừng tràn ngập cánh ư bay . Bống dưng có tiếng động mạnh . Thằng Rừng giật mình choàng dậy. Sau lưng nó bốn năm gã trai râu tóc rậm rạp thân hình vạm vỡ đang trố mắt nhìn vợ chồng nó. Hốt hoảng cực độ, vợ chồng thằng Rừng túm lấy áo quần che lấy thân, thì nghe một tiếng phực . Lưỡi rìu sáng loáng từ tay thằng cầm đầu - Đó là thằng Kiên con trai độc nhất của ông Kí làm kiểm lâm huyện, bay phập vào thân cây ư . Mủ từ đó ứa ra xối xả . Thằng Kiên hét lớn :

- Cút ngay ! Đ. mẹ giữa rừng thiêng mà mày dám à !

Vợ chồng Rừng run lẩy bẩy quay đầu bỏ chạy, nhưng chỉ vài chục bước thì bị bọn nó chạy theo bắt lại . Thằng Rừng bị trói gô vào gốc cây, khăn nhét vào miệng kinh hãi nhìn thằng Kiên ẵm con Lan lẫn vào một bụi cây.

Đêm ấy dẫu rất khuya, nhưng thằng Rừng không tài nào chộp mắt , còn con Lan thì nằm lặng yên, thi thoảng lại bật lên những nhịp thở làm cho thằng Rừng vô cùng bức bối . Những ý nghĩ bậy bạ cứ quấy quá đầu óc nó . Lúc thì những cánh ư bay chập chờn, khi thì lưỡi rìu sáng loáng mủ phun ra như sữa chảy . “Không thể được, phải kiện thôi”. Thằng Rừng dằn vặt, và khi sự dằn vặt đã đạt đến đỉnh điểm . Thằng Rừng nghiến răng thì thào :

- Này em, nó đã làm gì? .

Câu nói vụt vào tai con Lan, làm con Lan giật mình đánh thót . Con Lan cố mở to mắt lặng nhìn, căn phòng nhỏ tối và ẩm không thấy rõ đôi mắt thằng Rừng, chỉ có đóm lửa từ điếu thuốc, chốc chốc bùng lên màu đỏ ối và hơi thuốc làm cho căn phòng càng ngột ngạt hơn .Thằng Rừng cảm thấy hèn quá, sao lại nở hỏi câu ấy nhỉ? Mà thà rằng cô ấy khóc lóc để nó vỗ về an ủi, đằng này tịnh - không một lời nói - chỉ có tiếng thở tiếng thở nghe sao mà tức rực .

- Anh thật có lỗi ! . Nó lại nói . Con Lan ôm chặt lấy nó thì thào :

- Chẳng ai có lỗi cả, chúng ta là rừng mà không theo luật rừng thì phải chịu vậy!

- Không, anh sẽ kiện!

- Kiện ai! Đừng! Chẳng lẽ anh lại muốn ọi người biết em… Bỏ qua chuyện ấy đi - Sống mà về được đến đây là may rồi, hơn nữa em có hay ho gì đâu? …

Câu nói bỏ lửng, tuôn ra từ lồng ngực của con Lan, làm tim thằng Rừng nhói đau . Nó choàng tay siết chặt lấy thân hình con Lan . Bụng nó chạm vào bụng con Lan . Một ý nghĩ chợt nhói lên...Kể từ ngày cu Gà bỏ đi, đã mấy chục mùa ư …Nó buông ra một tiếng thở dài..

Thằng Rừng chưa kịp nguôi nổi nhục, thì tin thằng Kiên bị tai nạn, nghe nói trong lúc hạ cây ư ngàn tuổi nó đã bị cây đâm vào đầu . Nhờ tiền, chạy chữa tốt, nên thằng Kiên không chết mà chỉ ngây ngây, giống như kẻ mất hồn . Hai con mắt chùm bụp với tròng mắt đờ đẫn, lớp da trên mặt dày và cợm sần sùi đầy những vết thẹo . Thằng kiên thường lang thang ngoài bìa rừng, gặp bất cứ quả hạt cây gì, nó cũng lượm lên ngắm ngía một hồi lâu, rồi lẩm bẩm tung lên trời : “ ư ba y!, chò bay!..” Bọn trẻ nhỏ trong làng thấy thế lấy làm thích thú chạy theo nó hô vang : " Kiên bay!, Kí bay!" . Nó nghiêng đầu, nhìn bọn nhỏ rồi cũng há miệng ngô nghê hô theo…..

Cuộc sống là một con đường dài có nhiều lối rẽ bất ngờ. Thằng Kiên chưa tỉnh cơn điên, thì ông Kí chết sau một cơn đột quị . Đột quị khi nghe tin người thế chân thằng Kiên phát hiện ra ông nhận tiền phòng hộ rừng đầu nguồn của dự án X, nhưng lại bật đèn xanh cho lâm tặc phá rừng . Xe đưa tang ông đông lắm, toàn biển số xanh nhà nước và biển số đẹp của bọn nhà giàu buôn gỗ. Đông nhưng buồn . Buồn vì thằng Kiên không chịu bận áo xô, không chịu chống gậy, nên không có tiếng khóc. Mỗi người đưa tang là mỗi dòng suy nghĩ . Vợ chồng thằng Rừng thầm lặng hoà vào dòng người ra tận nghĩa trang, cho đến khi tiếng đất vĩnh biệt an ủi lục bục lộp bộp rơi, thì mọi người ngơ ngác nhìn thằng Kiên, tung xuống huyệt mộ những chùm hạt cây mà nó thường mang theo. Nhìn những cánh hạt ư, hạt chò lả tả bị đất cuốn chìm xuống đáy mộ, con Lan bỗng dưng ôm bụng nôn oẹ ra toàn mật xanh.. Thầy Tâm Quả thấy vậy bảo:

- Về nhà, đàn bà chửa tránh xúc động mạnh.

Thằng Rừng giật mình, nhìn cái bụng con Lan cơi lên sau làn áo . Nó lật đật dìu con Lan đi, khi ngang qua sân đình, thằng Rừng chợt nhìn thấy từ gốc chò bị lốc xoáy năm nào, vươn lên một mầm chồi non tơ. Nó reo lên: Em xem kia kìa, cây chò lại mọc chồi rồi! . Con Lan nhìn chầm chầm vào gốc chò hoang - bỗng dưng một cơn đau dữ dội quặn lên từ bụng dưới . Con Lan nén đau ôm lấy thằng Rừng thì thào:

- Này anh, lúc nãy ở đám tang em nghe người ta bảo…

- Bảo sao?

- Thằng cu Gà, thế chân thằng Kiên… Đôi mắt con Lan bỗng trở nên đờ đẫn, nó thấy chập chờn hình bóng của thằng Rừng đang xoay tròn trước mặt nó .Thằng Rừng hoảng hốt đỡ lấy con Lan . Những giọt máu từ ống quần con Lan rỉ ra đỏ cả một đám cỏ . Thằng Rừng bật khóc .

Vài ngày sau, dân Đồng Thịnh thấy xuất hiện một anh thanh niên lạ tóc để dài che khuất một phần khuôn mặt cùng với thằng Kiên và vợ chồng ông Rừng ra nghĩa trang . Hỏi ra mới biết đó là cu Gà . Sau bao năm cùng ông Thái bôn ba ở đất Sài thành, nay Ông Thái bảo cu Gà về tìm bố mẹ ruột .

Phải trồng lại cánh rừng thôi con ạ ! . Con Lan vừa nói, vừa đưa cho cu Gà nén nhang : “Có làm vậy thì bố con - người nằm dưới mộ sẽ thanh thản hơn” . Vâng! Con sẽ trồng lại cánh rừng . Nhìn mẹ con cu Gà lom khom quì dưới mộ ông Kí . Thằng Rừng như thấy lại cái bóng đen năm nào chui ra từ nhà con Lan . Thằng Rừng bật khóc . Nó khóc cho cánh rừng chưa đi hết một đời, mà đã chứng kiến bao nhiêu cảnh đổi thay, bao nhiêu người vì rừng đã nằm xuống …

Phải trồng lại rừng thôi!...

27. Những đứa trẻ chết

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Sau khi được người ta vớt lên từ dưới sông, đứa trẻ đã chết lâu rồi, nó không còn thở nữa và tim cũng ngừng đập. Cả người nó sũng nước và lạnh ngắt. Khuôn mặt trầy xước, bợt bạt, biến dạng. Những lọn tóc mây đen nhánh bết chặt lại trên vầng trán cao ẩn dấu một vẻ rất lanh lợi và thông minh. Người phụ nữ ôm thằng bé vật vã trong cơn đau tột cùng của cuộc đời là mẹ nó. Bà khóc than dữ dội và tức tưởi, như thể tất cả nỗi đau của cuộc đời này đều dồn nén lại nơi người phụ nữ bất hạnh ấy, cứ âm ỉ giày vò, hành hạ bà một cách nghiệt ngã, cứ bám riết dai dẳng mà không tự giải thoát .

-Con ơi, sao con lỡ lòng nào bỏ mẹ mà đi! Con đi rồi thì mẹ biết sống với ai? Mẹ chỉ có mỗi mình con, nuôi con lớn đến ngần này con lại nhẫn tâm xa mẹ. Con ơi, tỉnh lại đi con! Tỉnh lại nhìn mẹ đi, mẹ về với con rồi, từ nay mẹ không đi nữa, dậy đi con, đừng làm mẹ sợ...

Mặc cho tiếng lay gọi tha thiết của người mẹ, đứa trẻ vẫn nằm im, bất động, hai hàng mi mệt mỏi so mình vào nhau, mắt nó nhắm nghiền như không muốn mở ra để tiếp tục nhìn thấy cuộc đời. Đôi môi tím tái rủ xuống ủ dột.

Chỗ nó ở cách làng tôi một cánh đồng. Đó là một thằng bé tội nghiệp. Nó bị người cha nát rượu đánh đập ngay từ trong bụng mẹ. Khi lớn lên, nó trở thành một đứa trẻ ít nói và buồn rầu. Nó hay đi lang thang và thơ thẩn chơi một mình ngoài bờ sông. Ngày nó mất, những người đi làm đồng sớm vẫn nhìn thấy đứa trẻ ở đó với những mảnh vỏ chai, bột gạch vụn và những chiếc lá thái nhỏ làm đồ hàng. Có ai đi qua nó reo to:" Bác ăn cơm với cháu!". Vậy mà hôm sau người ta đã nhìn thấy xác nó nổi lên, dạt vào gần bờ sông. Dường như đứa trẻ bị ngã xuống nước khi nó cố nhoài người ra với những cành duối ngả ra sông. Mọi người hốt hoảng kêu la, vội vàng đưa nó đặt lên bờ.

Trong đám người túm tụm ấy có cả cha tôi. Ông đứng ngây người ra nhìn mẹ con đứa trẻ. Từ trong đáy mắt lạnh lùng ánh lên cái nhìn thẫn thờ, thương cảm. Đến khi mọi người ra về hết, ông vẫn còn ngồi đó rất lâu, xa xăm nhìn về phía dòng sông như chờ đợi một linh hồn bay lên trời, về với thượng đế.

Hai chị em chúng tôi cũng bất hạnh như đứa trẻ chết đuối kia. Nhưng. May mắn hơn là chúng tôi vẫn còn sống. Vẫn còn có thể hi vọng ở sự đổi thay của cuộc đời. Và trong những giấc ngủ ngắn ngủi, chen giữa những giấc mơ kinh hoàng biết đâu vẫn còn mơ thấy những điều tốt đẹp. Dẫu biết rằng, hạnh phúc và khổ đau là một tất yếu của cuộc đời. Nhưng, đối với mỗi chúng tôi, khổ đau thì nhiều mà hạnh phúc còn quá ít ỏi và mong manh.

Cha đánh chúng tôi luôn luôn, bất kể lúc nào, như thể ông muốn chút hết gánh nặng của cuộc đời vào những đứa con. Trong tiềm thức ngây ngô của tuổi thơ, ông hiện lên như một hung thần khi cầm trên tay chiếc roi mây, cây lứa, đòn gánh hay bất cứ thứ gì có thể quật vào những thân thể yếu ớt của chúng tôi. Vừa đánh, miệng ông vừa rít lên từng tiếng mắng nhiếc lúc dữ dội, lúc lại trùng xuống rên rỉ:

-Chúng mày làm khổ tao! Sao chúng mày không chết quách đi cho đời tao đỡ khổ? Sao chúng mày không đi luôn cùng mẹ chúng mày? Hay chúng mày còn ở lại đây để dằn vặt tao? Trời ơi, kiếp trước tôi đã làm gì nên tội mà kiếp này trời lại đày đọa tôi? Ôi trời ơi, khốn khổ cái thân tôi! Chúng mày làm khổ tao! Chúng mày sinh ra mà làm gì? Sống mà làm gì?...

Ông khóc. Những giọt nước mắt trào ra từ khóe mắt, chan hòa trên khuôn mặt tàn nhẫn. Miệng cha vẫn chửi như cơn đau đời chưa dứt, còn hành hạ làm trong ông khó chịu. Sự tức giận khiến những nếp nhăn trên khuôn mặt khắc khổ của cha xô vào nhau, dúm dó, làm vẻ mặt ông càng dữ tợn, đáng sợ. Chúng tôi không biết làm gì hơn là đứng nép vào một góc tường, sợ hãi đón nhận những trận đòn thù của cha một cách đầy cam chịu. Đứa em gái níu lấy tay tôi khóc không thành tiếng, cứ ư ử, nghẹn ngào nơi cổ họng. Lúc ấy, tôi đã nghĩ đến mẹ. Có đôi chút oán hận nhưng rồi lại mau chóng tan nhanh. Dù kể từ ngày đi, mẹ chưa một lần về lại, mặc cho chúng tôi héo hon vì thương nhớ, dù mẹ đã bỏ lại chúng tôi để hai chị em tôi đơn độc hứng chịu những trận đòn khốc liệt của cha, như đánh cả cho phần của mẹ nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn không hề oán trách. Bởi mẹ đi là một sự giải thát khỏi kiếp sống đọa đày.

Mẹ rời bỏ chúng tôi vào một sớm mùa đông trời mưa tầm tã, sương giăng dầy đặc trắng xóa cả dòng sông. Chiếc thuyền neo gần bờ thấp thoáng trong sương lạnh, nín hơi như chờ đợi người khách chạy chốn quê hương. Tôi vẫn nhớ như in ngày hôm ấy, khi mẹ nắm chặt tay hai chị em chúng tôi chạy nhanh qua những cánh đồng đang co ro vì giá rét, những ngôi mộ âm u rầm rì tiếng thở than của những linh hồn và những cơn gió ỉ ôi như người ta than khóc làm chúng tôi sợ hãi. Bây giờ nghĩ lại, hai chị em tôi mới nhận ra chưa bao giờ mình can đảm như thế. Nhưng khi gần ra đến bờ sông, cũng là lúc cha đuổi theo gần sát mẹ con tôi. Không còn cách nào khác, sau những phút đắn đo, ngậm ngùi ngắn ngủi, mẹ bỏ lại chúng tôi, vội vàng chạy nhanh lên thuyền, mặc cho tôi và đứa em gái đã cố gắng níu lấy áo mẹ:

-Mẹ ơi, mẹ đừng bỏ chúng con. Con không muốn sống với cha. Con sợ lắm! Cha sẽ đánh chết con mất. Mẹ đừng đi. Mẹ ở lại với con mà. Con hứa từ nay con sẽ ngoãn ngoãn, không hư, không làm mẹ buồn nữa. Mẹ bỏ hai chị em con lại, chúng con biết sống làm sao!

Đứa em gái tôi nức nở. Miệng nó méo xệch, giọng lạc đi, khản đặc vì gào khóc. Những tất cả những điều đó không lay chuyển được mẹ. Cuối cùng, mẹ vẫn cương quyết ra đi, rũ bỏ chúng tôi.

Con thuyền trôi từ từ trên dòng sông, mang theo mẹ và niềm hi vọng cuối cùng của tôi và em gái. Mẹ vẫn đau đáu dõi vào bờ, đôi mắt nửa như lưu luyến, nửa như van lơn sự tha thứ đến khi con thuyền dần dần khuất bóng trong sương mù. Và cũng từ ngày ấy, dẫu bốn mùa vẫn cặm cụi tuần hoàn cùng dòng chảy của thời gian, con thuyền ngày nào vẫn lênh đênh đưa đón khách, chúng tôi trở thành những đứa trẻ ngày ngày dắt díu nhau lang thang trên bến sông, chờ đợi mòn mỏi, với bao hi vọng rồi lại thất vọng trong vô số những người đàn bà ghé thuyến sang sông. Vậy mà vẫn không có mẹ.

Con đường dẫn vào làng trong những đêm mùa đông buốt giá, cô quạnh và rầu rĩ. Nhưng ngôi nhà mái ngói, mái tranh liêu xiêu, đổ nát mang vẻ trăn trở nằm san sát, nép mình vào nhau như muốn chống đỡ những cơn thịnh nộ của cuộc đời. Trong bóng tối, hàng cây bạch đàn lầm lì đứng im lìm, sừng sững như những bóng ma. Trăng và sao đã rủ nhau đi trú đông ở nơi nào, để lại một bầu trời hoang vắng. Không gian đặc quánh lại trong một màu đen tối thẫm, âm u. Tôi và em gái cầm tay nhau hớt hải chạy dọc con đường đất trơn và nhầy nhụa, men theo cánh đồng ra ngoài lều cá bên bờ sông, để lại phía sau một khoảng tối đen sâu hun hút. Cha đã không còn cầm đòn gánh đuổi theo nữa. Biết đâu, bây giờ ông lại chẳng đang say rượu nằm lại ở ven một đoạn đường nào để sáng hôm sau mệt mỏi tỉnh dậy, thất thểu tìm đường để về nhà và sẽ lại cất tiếng chửi rủa khi vừa nhìn thấy bóng chúng tôi thập thò ngoài cổng.

Ngoài lều cá, những cơn gió trời như được thời cơ nổi loạn, chúng sỗ sàng va đập cánh cửa cũ rách và thốc mạnh vào trong lều cá làm hai chị em tôi tê cóng. Tôi thở dài như muốn ném tất cả u sầu vào đêm tối. Đứa em gái thút thít khóc, những giọt nước mắt tuôn trào từ đôi mắt ngây thơ của nó làm ấm cánh tay chai sạn của tôi.

-Chị ơi, em lạnh quá!

-Thôi, em cố chịu đi, trời sắp sáng rồi!

-Hay mình về nhà đi!

-Không được đâu, về nhà bây giờ thì bố đánh chết đó. Em có muốn bị đánh không?

-Em không muốn đâu! Nhưng mà...

Nó bỏ lửng câu nói, nghẹn ngào dụi mặt vào ngực tôi, mắt nhắm nghiền như muốn quên đi thời tiết khắc nghiệt để chìm sâu vào giấc ngủ. Tôi khẽ khàng đưa tay quàng qua người nó, nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc mây mềm mại, vỗ về và bất chợt cất tiếng hát ru của mẹ" Âù ơ, cái ngủ mày ngủ cho ngoan, để mẹ đi cấy đồng sâu chưa về..."

Cuối cùng, em tôi cũng ngủ yên. Ngoài trời, gió vẫn thổi xao xác từng cơn. Bên bờ sông, dường như có ai đó đang ngồi thẫn thờ đạp chân khuya những con nước. Tôi băn khoăn tự hỏi:" không biết kẻ cô đơn nào lại ngồi giữa đêm mùa đông lạnh thế này?". Tôi tò mò lại gần, thì ra đó là một cậu bé. Và thoáng giật mình khi nhìn thấy nó chỉ mặc độc có một bộ quần áo cộc mỏng manh, vá víu.

-Em không lạnh à?

Thằng bé quay sang nhìn tôi. Thứ ánh sáng hiu hắt từ cây đèn treo trước lều làm cả khuôn mặt nó hiện lên mờ ảo với đôi mắt to, đen láy nhưng mệt mỏi, u buồn:

-Sao em không về nhà? Em không sợ ma à? Đêm lạnh thế này mà em chỉ mặc thế thôi hả? Thế nhà em ở đâu? Chị đưa em về nhé!...

Mặc cho tôi luôn miệng hỏi han, thằng bé vẫn im lặng, chân vẫn không ngừng đạp nước. Tôi kiên nhẫn ngồi xuống bên cạnh nó.

-Chị có hái được chúng không?

Nó thẫn thờ chỉ vào những cành duối đâm ra sông, hỏi tôi .

-Xa lắm. Chị không hái được. Em cần chúng làm gì? Khuya lắm rồi, về nhà đi, bố mẹ em sẽ lo lắm đấy!

- Em không về được?

-Sao thế?-Tôi lo lắng hỏi

Sau một thoáng im lặng, nó ngập ngừng:

-Vì... em đói!

Nó từ từ thả mình xuống mặt nước, chầm chậm lội trên sông, khi ra giữa dòng, nó quay lại nhìn tôi một cách buồn rầu rồi lặng lẽ tan biến vào sương khói để tôi thần người đứng trơ lại trên bờ đầy kinh ngạc và sợ hãi. Tôi choàng tỉnh dậy mới ngỡ ngàng đó là một giấc mơ nhưng tôi vẫn nghe thấy văng vẳng bên tai tiếng khuya nước và ám ảnh trong tâm trí khuôn mặt nhợt nhạt của thằng bé xa lạ. Một miền kí ức ùa về. Ở đó thấp thoáng hình ảnh về một trưa hè oi ả. Nắng chang chang dát vàng mọi nẻo đường khiến chúng thao thức vì nóng bỏng và khô rát. Cả làng quê đang im lìm trong giấc ngủ vùi mệt mỏi. Bỗng. Xáo động cả không gian tiếng người ta tớn tác gọi nhau, âm thanh dồn dập của những bước chân mải mốt, vội vàng. Mọi người đứng túm tụm ngoài bờ sông, vây quanh một người đàn bà đang vật vã trong tiếng khóc than thảm thiết. Một đứa trẻ nằm sõng soài trên nền đất, trong vòng tay gầy guộc của người mẹ. Có khi nào...

Mấy ai ngờ, đằng sau những lũy tre làng yên ả ngả mình vào nhau che chở cho làng tôi là những cơn bão táp của cuộc đời. Ở đó, có những đứa trẻ như chúng tôi. Những đứa trẻ nghèo nàn, thất học, mặt mũi lúc nào cũng lấm lem bùn đất, buồn rầu, ngẩn ngơ, đôi khi cả tục tĩu, biết văng bậy và chửi thề. Chúng lang thang trên những cánh đồng, ven những con sông. Chúng rình rập trong những bờ bụi để chờ người ta bất cẩn rồi ăn cắp. Những đứa trẻ bị cha chúng ruồng rẫy, hắt hủi ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Xét đến cùng, đó cũng chỉ là những đứa trẻ đáng thương, những đứa trẻ chết yểu khi mới chớm đặt chân vào ranh giới của cuộc đời. Vì mưu sinh, vì hoàn cảnh xô đẩy, hay vì một lí do nào khác những đứa trẻ bị mẹ bỏ rơi, vì lẽ đó mà cuộc đời chúng cũng chẳng khác gì cuộc đời của những đứa trẻ mồ côi. Những đứa trẻ chết dần chết mòn trong sự ghẻ lạnh. Chúng sống trên đời vật vờ, tạm bợ. Và trông chúng giống những sinh vật nhỏ bé, yếu ớt, tất cả hành động theo bản năng. Những đứa trẻ lớn lên, chúng rời làng quê phiêu dạt kiếm ăn nơi xứ người. Rồi đến khi bị sóng gió cuộc đời quật tơi tả lại tìm đường quay trở về quê hương như con thuyền sau bao lao đao muốn tìm một bến đỗ bình yên. Chúng lấy vợ, sinh con. Nhưng chúng không thay đổi hình hài mà mang chính những khuôn mặt tàn nhẫn của cha chúng. Những đứa trẻ tội nghiệp lại ra đời, vẫn quay cuồng trong vòng tròn luẩn quẩn của số phận.

Kết thúc mùa đông bằng một trận mưa rào xối xả, trời trở sang mùa xuân ấm áp và dễ chịu, nhất là khi có sự xuất hiện của người đàn bà mua sắt vụn. Không ai biết bà từ đâu tới mà chỉ biết rằng từ khi có người đàn bà ấy, bọn trẻ con trong xóm thay khuôn mặt ủ ê bằng những tiếng cười vui vẻ vì chúng có kẹo kéo để ăn. Bà nói chúng tôi dễ thương và đặc biệt quan tâm nên nhiều lúc kẹo kéo còn được bà cho không. Bà hay nhìn đứa em gái tôi bằng đôi mắt thẫn thờ và thường cho nó đồ chơi. Những vỏ chai bẩn thỉu mà tôi nhặt nhạnh trong vườn được người đàn bà đồng nát trả với giá cao, như thể bà vừa mua vừa cho. Giữa chúng tôi không có bất cứ một mối quan hệ máu mủ nào nhưng tình cảm của người đàn bà xa lạ khiến chúng tôi quyến luyến. Biết đâu, bà lại chẳng đã có những đứa con, cũng chạc tuổi chúng tôi và có những nét giống nhau, vì mưu sinh, bà phải xa chúng. Và, bây giờ, khi nhìn hai chị em tôi, bà chạnh lòng khi nhớ về những đứa trẻ mình đã bỏ lại bơ vơ.

Cha đã có phần nhẹ nhàng hơn trong cách cư xử với chúng tôi. Những công trình ít dần đi. Cha không còn phải theo đám phụ hồ hết làng này sang làng khác. Nhưng cũng từ đây, cha có một niềm vui mới. Cha đem về một người đàn bà xa lạ. Bà ta có một dáng người nhỏ thó, đôi gò má cao và đôi mắt lá dăm bé tí, lúc nào cũng liếc ngang liếc dọc một cách gian xảo, khiến người đối diện không mấy thiện cảm. Dường như cha đã quên đi sự hận thù với mẹ để đón nhận người đàn bà kia. Ông chỉ vào người đàn bà ngồi ghé vào mép giường, bảo chúng tôi:

-Từ nay, kia là mẹ của chúng mày. Chúng mày phải đối xử tốt. Nếu hỗn, tao đánh chết!

Nhưng ở với cha chẳng được bao lâu, người đàn bà bỏ đi. Chúng tôi đã nhìn thấy bà khoác túi quần áo và ẵm đứa con gái mới lọt lòng ra bến sông chờ đò. Nhưng chúng tôi cứ để mọi chuyện buông xuôi, không níu kéo, ngăn cản cũng không nói với cha vì chúng tôi đã nhìn thấy mẹ trong người đàn bà ấy. Ngày hôm đó, trời cũng mưa tầm tã như ngày chạy chốn của mẹ. Dáng bà cô độc và yếu đuối giữa không gian đìu hiu, hoang vắng khiến chúng tôi chạnh lòng. Không biết ở con đường phía trước, liệu bà có chống đỡ được những cơn bão táp của cuộc đời.

Cha không đi tìm người đàn bà nhưng trút hết giận dữ lên đầu chúng tôi. Mười mấy năm qua đi đã tôi rèn chúng tôi trở thành những đứa trẻ chai sạn, không còn kêu khóc khi bị đánh mà chỉ âm thầm chịu đựng nuốt những giọt nước mắt mặn chát. Đến đêm, lừa lúc tôi ngủ say, đứa em gái đã bỏ đi để mãi mãi về sau không bao giờ còn quay trở lại. Ngôi nhà ngói ba gian xiêu vẹo, tuyềnh toàng giờ chỉ còn lại hai con người đơn độc, luôn thiếu vắng tình thương của một người phụ nữ. Không hiểu vì đâu mà người đàn bà bán đồng nát cũng không còn quay lại xóm đổi kẹo khiến tôi hụt hẫng.

Nhưng cũng kể từ đấy tôi hận cha, hận tất cả những gì mà tuổi thơ của tôi đã bị đánh cắp. Mặc cho ông đang dần thay đổi, ông không còn chửi mắng và đánh đập tôi, như thể ông muốn níu kéo đứa con gái cuối cùng còn sót lại. Nhưng, đối với tôi, tất cả đã quá muộn màng.

Trời ngả về chiều, gió lồng lộng thổi đung đưa những ngọn cây. Tôi tỉ mẩn nhặt từng hạt sạn, mở vòi nước vo gạo rồi bưng nồi vào bếp, nhóm lửa nấu cơm. Ngoài sân, cha vẫn cặm cụi làm những chiếc vó để ngày mai kịp thả chúng xuống sông. Bỗng từ xa dồn dập tiếng bước chân, tiếng người hò hét. Tiếng vọng ngày một gần hơn đến khi kéo hẳn vào trong sân nhà tôi một lũ người ngợm gớm ghiếc. Da chúng đen ngòm màu cháy nắng và trên mái tóc nhuộm những màu xanh đỏ lòe loẹt. Có khi nào, chúng đến để trừng phạt tôi vì đã dám cạnh tranh làm ăn với chủ cửa hàng cá ngoài chợ. Chúng mang những hình hài và những cái nhìn tàn nhẫn, nửa xa lạ mà nửa như thân quen. Biết đâu, nếu dò tìm trong kí ức, tôi đã từng gặp chúng ở đâu đó: một cánh đồng hoang vắng, ven bờ sông hay lấp ló trong một bụi cây rậm rạp...khi chúng còn là những đứa trẻ.

Bọn người dữ tợn tiến sát và dồn tôi vào chân tường của gian bếp, trực đánh nhưng cha đã kịp thời cản chúng lại. Chúng hung hãn quay sang đánh cha. Tiếng gậy gộc đập vào xương nghe răng rắc, đầu cha chảy máu, những giọt máu lăn dài trên mặt, rỏ xuống chiếc áo cộc trắng cha đang mặc làm tim tôi đau nhói. Tôi hoảng sợ đứng chôn chân một chỗ, bỗng có tiếng cha quát lớn:

-Chạy đi Lan! Chạy đi con! Chạy đi...

Tôi sực tỉnh, hoảng sợ bỏ chạy. Đây là lần đầu tiên trong mười tám năm sống trong kiếp người, tôi được nghe cha gọi một tiếng "con". Tôi ao ước đó không phải là lần duy nhất và cuối cùng. Tôi cắm đầu chạy băng qua những con đường, những cánh đồng quen thuộc rồi cuối cùng đuối sức gục ngã ở bờ sông. Mắt tôi hoa lên, toàn thân run rẩy vì sợ hãi. Tôi thấy tim mình đang thoi thóp. Trong lúc chờ đợi cái chết sẽ ập đến, tôi nghĩ về cha. Rằng, cha chỉ là nạn nhân của nghèo nàn và hủ tục. Gía như không có những con sóng dữ dằn của cuộc đời xô ngã thì có lẽ cha đã khác, sẽ hiền hòa và yêu thương chúng tôi. Cha ruồng rẫy chúng tôi chỉ vì cha khổ quá và ông muốn giải tỏa những cơn đau đang hành hạ, quặn thắt trong lòng. Trong cuộc đời, ai chẳng một lần phạm sai lầm. Điều quan trọng là biết quay đầu sửa chữa. Đừng bao giờ ta quay lưng với họ, đừng nên khắc hận thù nên đá mà hãy viết chúng lên cát để những cơn gió tới sẽ thổi bay đi. Bây giờ, sau bao biến động, tôi đã có thể tỉnh táo nhìn nhận lại cha và tha thứ...

Bỗng một bàn tay nâng tôi dậy, đặt đầu tôi vào lòng, vuốt những giọt nước mắt đang nhòe nhoẹt trên gò má, vỗ về tôi. Ngẩng mặt lên nhìn, tôi nhận ra đó là người đàn bà bán đồng nát, bà từ từ bỏ chiếc khăn đang che trên mặt chỉ để hở đôi mắt, tôi bàng hoàng khi đó là mẹ. Bà thổn thức:

-Mẹ xin lỗi...đã bỏ các con lại. Mẹ về rồi và sẽ không bao giờ xa con nữa. Con tha thứ ẹ, được khôg con?

Tôi không nói được lời nào. Mọi thứ từ từ chìm ngập vào bóng tối. Trong cơn mê man, tôi nhìn thấy đứa trẻ xa lạ có đôi mắt buồn rầu ngày nào đứng ở giữa sông nhìn tôi mỉm cười. Có một cột sáng chói lòa rọi xuống từ trên trời, một người phụ nữ có khuôn mặt phúc hậu đến bên, dắt tay nó theo cột sáng bay lên thiên đường.

Liêu Xá, ngày 13 tháng 7 năm 2011.

28. Bơ vơ (Thiếu)

29. Xác chữ

Truyện ngắn của Phạm Long Hà

Hạnh đưa cánh tay gầy nhẳng xanh xao vén khe khẽ miếng vải che hờ khung cửa sổ. Miếng vải màu xanh nhạt đã cũ kĩ ngả vàng như tấm màng ngăn cách căn phòng u tối ẩm mốc tĩnh mịch với thế giới đầy phởn phơ thơ thới tạp nham ồn ã bên kia đường. Chẳng mấy khi Hạnh chạm tay vào tấm vải ấy, vén ra. Với hắn, ánh sáng như của thừa. Hắn nghe tiếng mưa gõ trên mái tôn boong boong từng giọt thưa rồi mau dần tới lúc sàn sạt không còn rõ hạt ngắn hay hạt dài. Hắn thấy tiếng bước chân của mẹ cùng tiếng thốt ngỡ ngàng: “Trời ơi, tháng Giêng mưa rào!”. Hắn nhỏm người nhìn ra ngoài, mưa xối xuống, từ vỉa hè, từng dòng nước đen ngòm như nước cống loang rộng chảy xuống mặt đường trôi vằn vèo như những con rắn khổng lồ dị dạng. Ngáo ngơ nhìn người xe xuôi ngược giao nhau khiến mắt hắn hoa lên. Bỗng gió bấc xiên thành từng luồng vào ngực, hắn bất chợt rùng mình, vội kéo tấm vải. Đặt khe khẽ cái đầu xuống mặt chiếu, hắn thao láo mắt nhìn lên trần nhà lắng nghe mẹ hắn đi lại khẽ khàng trong căn phòng, vừa rờ rẫm vừa lẩm bẩm với cơn mưa rào trái mùa kì lạ. Mẹ hắn bảo, mọi thứ lung tung rồi, mùa cũng lung tung. Hắn chợt phì cười vì cách nói của mẹ nhưng bỗng một cơn nhói trong não khiến hắn lại ngây ra.



Con phố vắt ngang tầm mắt từ khung cửa sổ nhà Hạnh cứ Tết đến bỗng huyên náo lạ thường. Cả một vỉa hè bán buôn cho gửi được bày ra với đủ thứ hàng từ lọ hoa bình bát giả cổ, tranh gốm tranh sứ, tranh Đông Hồ, Hàng Trống, giấy điệp mực tàu đến giày xuất khẩu lỗi, găng tay cao su, hóa chất cọ rửa. Không hẹn mà thành, từ ngày rằm tháng Chạp đến hết rằm tháng Giêng, thiên hạ rủ nhau về bán mua. Hạnh cũng chẳng nằm ngoài số người thẩn thơ trên cái vỉa hè ấy. Hắn thủng thỉnh ra đường.

Ngày nào cũng giống ngày nào, đầu tiên hắn ghé quán nước làm ngụm trà thật đặc, bắn mồi thuốc lào rồi phả khói mơ màng lên tán cây trên đầu. Quán có quanh năm, chẳng kể mưa hay nắng, một góc tựa lưng vào bờ tường, góc kê vào cột điện, cái võng đung đưa lão chủ quán cả bốn mùa, ngày đêm. Hạnh với lão chủ quán có lạ gì nhau, bởi cùng là dân trên con phố này, chỉ có điều, thời lão mặc bộ quần áo lính ngồi tựa lưng vào bờ tường, tay vẩy dây đàn cất giọng hát về những cơn mưa rừng hay những ngày xuân đầy tiếng súng thì Hạnh mới đang mặc quần đùi đi học. Vì thế, cuộc đời lão đối với Hạnh, có những khúc vẫn còn như một ẩn số.

Hạnh phà thêm một ngụm khói lên cây, lâng lâng thể xác trong một ban mai tịnh mát, bắt chéo tay sau lưng thong thả bước trên vỉa hè. Hắn đi chậm rãi nhìn chăm chú từng món hàng. Chỉ khi bước chân đến dãy hàng chữ thì hắn sững lại. Hắn ngỡ ngàng nhìn một dọc bờ tường treo đầy giấy đỏ, không tin vào mắt mình vì thấy nó bỗng dài hơn năm ngoái năm kia. Sững lại rồi bước tiếp. Hạnh ước chừng mọi năm, dãy hàng chữ chỉ ngồi một hàng chừng dăm ba chục bước chân, giờ bước từng đấy bước, hắn mới chỉ đến chỗ ngồi của lão thầy già bạn vong niên của bố hắn. Hắn chắp tay xá ông cụ râu trắng như cước ấy một xá rồi đi tiếp, nhẩm tính cũng còn phải cả vài trăm bước nữa hắn mới đi hết dãy hàng chữ. Hắn đi một lượt rồi dừng lại từng chiếu, cứ chiếu nào đông khách hắn chen vào. Hắn nhìn như hút vào chữ, vào cái màu mực đen mê hoặc cả đời cha hắn rồi truyền sang đời hắn. Có người viết nhận ra hắn đang lẫn trong đám đông người ngắm chữ kia thì reo lên: “Thầy Hạnh”. Hắn ngơ ngác cười, chắp tay trước trán, gập lưng vái dài người vừa xướng tên mình.



Từ hôm cái vỉa hè bán mua kia hoạt động, Hạnh cứ đi về bần thần. Có một tối, hắn bỏ cơm, bó gối ngồi nhìn chằng chằng lên bàn thờ cha. Hắn thắp ba nén hương lầm rầm khấn tiếng được tiếng khan rồi vặn tách cái công tắc đèn bàn. Hắn đi lại phía tủ sách của cha để lại, rút toàn bộ những cuốn sách tiếng Hán xếp thành chồng. Hắn lẹp kẹp bước xuống cầu thang ra phía sân kiếm cái chậu men mẻ mép của mấy bà già dùng để hóa vàng. Bóng hắn lặng lẽ hắt lên tường, gầy nhẳng và đơn độc. Hắn gù gù cái lưng ngồi xuống. Trang sách đầu tiên vàng ố mong manh rơi xuống đáy chậu. Lửa bùng lên. Hắn đốt.

Lửa uốn éo tựa bức tượng nàng vũ nữ Chăm chập chờn ma quái in bóng lên tường. Liếm láp ngon lành từng trang giấy tơi tả rơi ra từ tay hắn, cái màu ố vàng co rụm lại rồi biến mất trong chiếc chậu. Chữ nghĩa cũng biến mất. Tay hắn run run. Môi hắn bậm lại. Mắt hắn trừng trừng nhìn vào chậu tro. Bỗng một tiếng “xèo” rất nhẹ tan nhanh trên đống tro còn đang nóng rực. Giọt nước đâu như từ mắt hắn rơi ra. Hắn khóc. Hắn ậc ậc vài tiếng rồi bỗng hu hu tru lên như chó sói.



Cả cái vỉa hè bán mua cho gửi kia chiều nay om xòm tiếng nhạc. Từ giá chầu Ông Hoàng Bảy đến quan họVào chùa rồi Tương phùng tương ngộ đều thành nhạc đường phố ầm ầm với 2 chiếc loa thùng cỡ đại. Hạnh không dạo bước ngoài hàng chữ nữa, hắn ngồi lì nơi quán nước, mắt vô hồn nhìn mớ bảy mớ ba phấp phới bên kia đường. Lão bán quán nước chè thì khục khặc trong họng. Hạnh chỉ loáng thoáng nghe tiếng lão chửi. Lão chửi từ ông thầy già từng là bạn vong niên của bố Hạnh bỗng dở chứng ham tiền viết một chữ trên tờ giấy điệp bán ấy đứa sắp thi đại học bằng mệnh giá lớn nhất của tiền Việt, xin chữ hay mua chữ xong chúng đều xót, chửi lũ trò ranh viết được chục chữ cả đúng lẫn sai cứ đánh mép khua môi bán cho được, chửi người mua không hiểu chữ mà hám trò như trọc phú. Thành ra, tổng cộng tất tật lời của lão, thì lão chẳng tha ai, chửi từ đầu đến cuối vỉa hè. Rồi bỗng lão im bặt, lặng đi một hồi lão nói mà như nấc:

- Thời ông cụ nhà chú, chữ nghĩa hiu hắt – Lão hất hàm chỉ về góc phố - Nghèo! Như nhà tôi, sáu cái mồm khỏe như vâm, cả cái Tết được bốn lạng thịt ba chỉ bẽo nhẽo bạc nhạc, thì ai nghĩ gì đến chữ. Vài ông nhà trên phố cổ xuống đây, xin viết một chữ rồi ra ngồi tán cả buổi. Người ta bảo: Chữ ông cụ nhà chú đẹp và cốt cách lắm.

Hạnh cứ ngồi như vậy nhìn buổi chiều mùa đông rơi sập trên đầu. Mùi trầm hương bắt đầu lan nhè nhẹ trong không gian, quẩn sâu vào trong gió. Những mớ ba mớ bảy bên kia đường đến hồi vãn tà thì lão chủ quán nước nhổm dậy khỏi chiếc võng xoay người gỡ chiếc đàn cũ treo trên bờ tường xuống. Lão vuốt nhè nhè dây đàn. Lão cất giọng rè rè hát. Mùa xuân lá khô. Bài hát này Hạnh đã thuộc tai thuở còn đi học.

Nghe tiếng đàn của lão bán quán, cái quán nước bỗng vòng trong vòng ngoài người đứng nghe. Cả phố hàng chữ vừa dọn xong giấy mực cũng vây cả lại để tợp ngụm trà, rít vài mồi thuốc, chỉ còn lão thầy già vẫn lúi húi dọn giấy bên bức tường cùng một đứa con gái mắt thâm môi mỏng. Lão chủ quán kể với Hạnh ban sáng, năm nay thầy già có trợ lý thu tiền, sáng nó chở thầy đến, ngồi kè kè thầy cả ngày, chiều tối nó lại chở thầy về. Hạnh lọt thỏm người bên góc cột điện nhìn chăm chú dáng vóc ông bạn vong niên của cha run run vịn tay vào vai đứa gái rồi khẽ khàng vắt chân lên ngồi sau xe máy. Chiếc xe lao vút xuống đường, Hạnh vẫn ôm chặt chén nước trà. Trong tay hắn, lớp men ngoài chiếc chén ướt bóng lên vì mồ hôi từ lòng bàn tay hắn túa ra chứ nước thì đã nguội từ bao giờ . Hắn bỗng nhớ cha mình quá, nỗi nhớ héo hắt run rẩy như cơn gió chiều.



Thuở lên năm, Hạnh bắt đầu mài mực cho cha viết chữ. Mài mực một năm, cha tập cho Hạnh cầm bút. Chữ của cha Hạnh, người treo trong nhà không nhiều, người hiểu mới dám chơi nên chữ chỉ nằm nhiều trong đình đền miếu mạo chùa chiền và các câu đối treo trong nhà thờ nhiều dòng họ. Cả một đời, ông gập mình bên án thư như cây si già cắm rễ vào chữ, tai không nghe lời thị phi, mắt chẳng nhìn tới sự đổi thay thế thời cũng như chẳng màng tới sự tầm phào của thiên hạ. Tới Hạnh, hắn thông thạo hai mươi tám thứ ngôn ngữ nhưng cái chữ được viết nên bởi màu mực đen óng ả huyền hoặc kia vẫn luôn ám ảnh tâm tư hắn. Sau khi cha Hạnh mất, những người quen cũ của cha tới nhờ Hạnh làm nốt phần việc dang dở của ông. Cả căn phòng Hạnh chật nút trên gác hai của khu tập thể cũ nát, luôn ngập lên giấy tờ sao chụp lại những bản sắc phong đã mất hoặc cũ nát của nhiều dòng họ. Đi thì thôi, nếu ở nhà đêm đêm, hắn lại giống cha, gập mình bên án thư, in chiếc bóng cô độc lên bức tường vôi nham nhở mốc vàng.

Người am hiểu khen Hạnh “hổ phụ sinh hổ tử”, chữ nghĩa hắn như rồng bay phượng múa lại phủ màu bàng bạc của núi rộng sông cao. Hắn chỉ gập người, xá người khen một xá dài.



Càng áp Tết, vỉa hè kia càng trở nên tấp nập. Những hàng lọ bình bát cổ, tranh gốm tranh sứ, găng tay giày mũ nước tảy rửa dọn hàng từ sáng Ba mươi, chỉ còn lại dãy hàng chữ vẫn đông nghẹt người xem mua chen lấn. Chữ nghĩa gặp cơn gió nồm, mực đọng lại chảy thành dòng trên giấy, phấp phới bay dọc vỉa hè xớn xáo xôn xao. Đông người đến mua, dãy hàng chữ như được nâng cấp trở thành “chợ”, vách bịt lều che sớm chiều eo xèo mặc cả, bán mua, đổi chác. Chợ chữ náo nhiệt từ sáng sớm tới sẩm chiều, khi người ta không còn nhìn nổi mặt chữ trên nền giấy nữa thì dọn hàng.

Hạnh, lão chủ quán, anh chàng vẽ chân dung dạo cùng tay cắt tóc đầu phố bày chiếu rượu vỉa hè từ chín giờ sáng tới quá ba giờ chiều chưa ai muốn đứng lên. Lão chủ quán phó mặc việc cho đứa gái vẫn gọi lão là “bố”. Nó cứ tong tảy tay xách tích tay cầm chén, chân quấn lên cổ rót nước cho cả dãy vỉa hè rồi mê mải chạy lấy thêm nước sôi, thay xỉ than. Những lúc khách đông quá, mình nó phục vụ không hết, Gái quay sang gọi “bố”. Lão dường như không đếm xỉa đến tiếng gọi, nhưng có lúc bực lên, lão quát: Dẹp!.

Nhân lúc lão chủ quán đứng lên, lõng thõng đôi chân cà nhắc bước về phía cuối con phố, nơi đặt nhà vệ sinh công cộng phục vụ khách đi đường, tay cắt tóc ghé vào tai Hạnh thì thầm. Hạnh như ớ ra vài phút rồi lại như chả có chuyện gì.

Rượu tàn, anh chàng vẽ chân dung dạo xoa bụng, tay thợ cắt tóc phủi đít, dọn chai, cùng mấy cái đĩa đựng đồ nhắm, lão chủ quán trở về đung đưa trên cái võng, Hạnh lại ngồi như dán người vào góc cột điện. Hắn cúi cong cái cổ như muốn để khuôn mặt song song với mặt đất nhưng thực ra thì hắn đang nhìn vào đôi tay của cái Gái. Tay Gái, da nứt toác như mặt ruộng ngày hạn, sần sùi chai cứng, chỗ tím lại, chỗ đỏ phồng lên. Những ngón tay ngắn, dị dạng sần sùi như phong ăn. Tay cắt tóc kể, cái Gái có đôi tay như thế, hồi nhỏ đi xin việc gãy lưỡi què chân chả gia đình nào dám nhận cho nó làm giúp việc. Thấy nó lang thang vất vưởng, lão chủ quán mới bày cái bàn bán nước ra vỉa hè cho nó đun nước, đổ xỉ than, và nó gọi lão bằng “bố”. Hạnh lại nhớ đến ánh mắt tinh quái của tay cắt tóc lúc kề miệng vào tai hắn thì thầm, rằng chỉ có mình tay ấy biết cái Gái là “tay vịn” của lão chủ quán, chứ chẳng bố con gì.

Chuyện bán buôn chữ nghĩa, hay góc tối của những mảnh đời trên cái vỉa hè này cũng đáo để hay. Cả năm gặp nhau chỉ một lần, chữ ai “lên tay”, chữ ai chỉ còn cái xác rỗng hay những bí mật tưởng chôn vùi bỗng bị bới móc đem buôn dưa lê. Lão thầy già bạn vong niên của cha hắn năm nay tay đã run lắm, khi xưa vận bút lẹ như dùng roi nhưng nay có lúc đãng trí viết quên nét. Thầy đồ Gia vốn tô chữ như thần năm nay bệnh gút hành hạ năm đầu ngón tay bèn giao lại chiếu chữ cho anh con trai, gặp hai người khách là lính biên phòng xin viết chữ “Tổ quốc”, anh con trai viết chữ “Tổ” rồi lật như muốn rách cuốn từ điển Hán - Việt vẫn không nhìn ra chữ “Quốc” viết nốt. Hạnh ngồi uống rượu với lão chủ quán nước, anh vẽ chân dung dạo, tay cắt tóc đầu phố từ sáng nghe kháo đủ thứ chuyện nhưng hắn đâu thấy rượu ngon gì, cứ đắng ngòm trong cuống họng rồi chát xít lại nơi thành vách dạ dày.

Hạnh đứng dậy, rời lưng khỏi cái cột điện. Lão chủ quán đoán hắn say lắm nên về nhà vì lão thấy mắt Hạnh đã chuyển sang màu đục ngàu. Nhưng hắn không về. Hạnh đi một lượt dọc vỉa hè, tay chắp trước ngực vừa đi vừa vái trước sự ngỡ ngàng của cả dọc dài con phố. Đi hết dãy hàng chữ bỗng dưng hắn húc sầm đầu vào bờ tường. Cú húc đầu mạnh tới nỗi tấm lưng lão chủ quán đang tựa vào bờ tường đầu kia cũng nghe thục lên một tiếng. Nháo nhào người xô nhau lại, lão chủ quán cũng cuồng chân thậm thọt chạy đến đám đông.



Hạnh mở mắt. Ý nghĩ đầu tiên sục sạo vào não hắn: Không chết! Hắn nhìn thấy khuôn mặt mẹ nhòa rồi nét rồi nhòa. Hắn lại thiếp đi.

Hắn được đưa về nhà trong tiếng nỉ non rên rỉ của mẹ cùng tiếng chẹp miệng của mấy bà già cùng khu tập thể rằng hắn đúng là thằng Hạnh rồ. Mẹ hắn than, con bà sẽ phải nằm yên cả tháng trời cho đám máu bầm bám trong não tan ra.

...

Hạnh nằm yên nghe từng tiếng bụi rơi trong căn phòng u tối ẩm mốc. Dường như mẹ hắn đang thắp hương khấn khứa thần linh thổ địa tổ tiên và cha hắn nên không gian quanh hắn quẩn đặc mùi khói nhang. Nhưng hơn cả thế, mùi khói càng lúc càng nặng, hắn ngóc đầu nhìn ra cửa sổ, bên kia đường lửa đang liếm từng đống giấy chất trên vỉa hè. Khói lượn vòng vèo bám lên cây, chui vào cửa sổ nhà hắn, mờ mịt. Hắn giật mình nhớ ra, hôm nay ngày Rằm tháng Giêng, ngày kết thúc của dãy hàng chữ. Chữ nghĩa còn sót lại được hóa vàng, tro than đang bay nháo nhác cả phố. Hạnh trừng trừng, dường như những cái xác của Phúc Đức Trí Tâm Hạnh Duyên Lộc Đạt đang lượn lờ trên không trung đùa giỡn trêu ngươi mắt hắn. Hắn đờ đẫn đưa tay kéo tấm vải che khung cửa sổ lại. Nhắm mắt rồi nhưng hình ảnh cả một vỉa hè dài xáo xác tro than đen sì nham nhở đỏ trắng vàng những mẩu giấy chưa cháy hết cứ như đang nằm ngay cạnh hắn. Tim hắn cứ đập dội lên từng hồi, mạnh tới nỗi hắn ước lượng được trọng lượng quả tim mình.

...

Người đàn bà cả đời dành nhiều thời gian cho việc quẩn quanh trong nhà dường không chịu nổi sự thất thường thời tiết trái mùa. Mẹ Hạnh cứ sột soạt đám túi ni lông như cất giữ gói ghém cái gì lâu lắm, miệng không ngớt lẩm bẩm, than van.

Kì lạ, tháng Giêng mà có mưa rào!

30. Thành phố không mặt người

Truyện ngắn của Hoàng Thị Thanh Hương

Cô có một thói quen rất lạ, đó là hay cắn móng tay, móng chân đến tứa máu. Cái cảm giác đau đau, xon xót khi những vết thương hở này tiếp xúc với môi trường bên ngoài làm cô vừa hoảng hốt vừa thích thú. Chính vì sở thích kỳ dị này nên mãi đến hai mươi tuổi, móng tay móng chân cô vẫn không dài được mà luôn ăn sát vào da, nhìn cụt lủn, khó coi vô cùng. Vậy nhưng cô đâu để chúng yên! Bất cứ khi nào buồn buồn hoặc lo lắng, hồi hộp, cô lại ngồi cắn móng tay, cạy móng chân. Mười đầu ngón tay ngón chân của cô lúc nào cũng tươm tướp, tựa hồ chỉ cần gảy nhẹ thêm một chút là máu từ cơ thể cô sẽ tuôn ra ồ ạt cho đến khi cô biến thành cái xác bệt bạt thì thôi.

Cô sống ở thành phố phía Tây đã lâu lắm rồi, đến nỗi nhiều khi nhớ lại, cô tưởng đã dài hằng thế kỷ. Cô ở trọ một mình cùng với một bầy mèo hoang. Trong thành phố này, cô không rõ mình biết được bao nhiêu người. Người ở đây không có mặt nên hôm nay cô nói chuyện với họ, nhưng ngày mai họ làm kiểu tóc khác, mặc bộ áo khác, vậy là không nhận ra, và hai người trở thành xa lạ. Lúc đầu mới đến thành phố, cô có hơi ngạc nhiên, nhưng dần dà rồi cũng quen. Tuy vậy, chỉ có con người là không có mặt, còn những bầy mèo hoang, chó hoang, chuột hoang ở đây, con nào cũng có mặt. Cô tin là cô vẫn còn mặt.

Seiko bảo, nếu đến cuối tháng anh kiếm đủ một ngàn đô la thì anh sẽ dẫn cô đi du lịch nhân kỉ niệm ngày cô và anh quen nhau. Năm ngoái Seiko tặng cô một thỏi son đỏ như máu của L’Oreal. Năm kia thì anh quên không tặng gì. Năm trước nữa anh bận đi công tác. Năm trước đó nữa anh tặng cô một cái lắc PNJ. Năm trước của năm trước đó nữa anh say rượu, gặp tai nạn phải nằm viện, cả hai người chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến ngày kỉ niệm. Seiko tính tình cũng tốt, chỉ tội cái vô tâm. Anh hay quên nhiều thứ, và phải nhờ đến ứng dụng nhắc nhở công việc của điện thoại. Có lẽ trong bộ nhớ của anh, chỉ có hai thứ được lập trình kĩ càng khiến anh ngủ cũng không quên được, đó là mật khẩu tài khoản tiết kiệm và chiếc đồng hồ hiệu Seiko đeo trên tay. Lúc nào anh cũng phải đeo nó ở cổ tay trái, mặt nằm đúng trên phần xương sụn và lúc nào cũng phải láng bóng. Anh luôn chú ý cử động tay trái nhẹ nhàng để không làm đồng hồ bị trầy xước. Có lần vô tình làm rơi nó xuống nền gạch, anh đã buồn cả tuần sau đó. Chính vì vậy, anh mới được gọi là Seiko.

Nhờ có cái đồng hồ hiệu Seiko mà mọi người có thể nhớ và phân biệt anh. Còn cô, cô không đeo gì cả. Quần áo cũng ăn mặc lung tung, thích thế nào thì kết hợp thế ấy. Vì vậy, hôm nay người ta gọi cô là Tóc Tém thì mai đã gọi là Tóc Xù; nay Áo Vàng thì mai Áo Xanh; nay Channel mai Kappa… Cô không cho đó là phiền hà, miễn là cô còn mặt. Cô luôn tự nhủ như vậy. Có lần, cô hỏi Mai (tên một con mèo):

“Nếu mày không còn mặt, mày sẽ thế nào nhỉ?”

Mai là con mèo đực đầu đàn khôn ngoan nhất, và về một khía cạnh nào đó, có thể xem là con vật có tư cách nhất. Nó không bao giờ lén lút ăn vụng, không bao giờ tham lam mà quên cả tính mạng, không bao giờ hung hăng, ỷ vào sức mạnh để giành giật miếng ăn của kẻ yếu hơn. Nó là một con mèo được kính nể và tin tưởng tuyệt đối.

Nghe cô hỏi vậy, Mai vểnh sợi râu lên ra chiều nghĩ ngợi. Một lúc nó tặc lưỡi bảo:

“Chắc tôi chết mất!”

“Sao lại chết?” – Cô ngạc nhiên.

“Thế thì còn gì là tôi nữa?!”

Con mèo đáp chắc nịch rồi lại tiếp tục công việc ưa thích của nó là liếm láp chân cẳng, lông lá. Một lúc, nó quay qua cô, cất tiếng meo meo:

“Thế còn cô?”

“Tôi à? Tôi không dám khẳng định điều gì cả”.

Mai gật đầu ra chiều hiểu biết:

“Tôi nhìn thấy mà. Ngoài kia bao nhiêu người không có mặt nhưng vẫn sống đấy thôi!”

Cô im lặng. Con mèo nói cũng đúng.

Mai có khả năng đặc biệt, nó đoán biết mọi việc như thần. Lần đầu tiên bắt gặp cô đi với Seiko trên đường, về nhà nó đã khịt mũi hỏi, anh chàng đó là Seiko à? Cô bảo ừ. Mai trầm ngâm, Seiko ấy à? Bản thân mình anh ta cũng chẳng biết có đủ mười ngón chân ngón tay hay không, nhưng nếu hỏi có bao nhiêu khấc trên dây đồng hồ, hoặc còn bao nhiêu tiền trong tài khoản là anh ta sẽ đọc vanh vách cho coi! Cô ngạc nhiên, sao mày biết rõ vậy Mai? Trời ạ, nếu tao mà được như mày, tao đã có thể kiếm bộn tiền để cút khỏi nơi này. Mai cười khục khựa, ria mép rung rung: Vì thế tôi mới là Mèo.

Mai không thích Seiko, nhưng cũng không ghét anh. Nói cho cùng, nó là một con mèo an phận, không mấy quan tâm đến xung quanh. Chỉ cần không động chạm đến nó, nó sẽ không xù lông giơ vuốt. Nó chỉ hay nhăn nhó mỗi khi thấy móng tay móng chân cô tướm máu. Mai không thích tình trạng này của cô chút nào. Nó gừ gừ, người ta thì trốn tránh đau đớn, sao cô lại đi tìm đau đớn làm chi? Cô nhún vai, chỉ hơi sưng và khó chịu một chút thôi mà. Nhưng những khi động chạm tay chân, nhờ cảm giác đó mới nhớ ra mình còn tồn tại. Mai nghe vậy thì không gầm gừ nữa. Nó phóng tót lên vách rào rồi biến mất. Tuy thế, nó vẫn không thể không cằn nhằn cử nhử mỗi khi thấy cô cắn móng tay, cạy móng chân.

Seiko thì không vậy. Anh không để ý đến thói quen này của cô, mà dẫu có thấy thì cũng chẳng tỏ thái độ gì. Câu nói anh hay dùng là: “Thế nào cũng được. Em thấy cái nào phù hợp thì em làm. Mỗi người phải có quyền tự quyết; anh không nên can thiệp”. Cô đem chuyện này kể cho Mai nghe, nó bảo, muốn Seiko tỏ thái độ thì chỉ cần xâm nhạp vào tài khoản ngân hàng của anh ta để rút ít tiền ăn vặt, hoặc giấu cái đồng hồ của anh ta đi là xong. Anh ta sẽ phát khùng cho coi! Mai còn nói thêm: Thật lòng tôi, tôi thấy Seiko hợp với Dior hơn cô đấy!

Dior là bạn cô. Cô với Dior và Seiko là bộ ba chơi với nhau từ hồi Trung học. Lên Đại học rồi ra trường, ba người thỉnh thoảng vẫn đi chơi chung. Cô với Seiko thành một cặp, còn Dior vẫn lêu lổng chơi bời, nay yêu người này, mai quen người khác. Dior luôn được sống theo ý mình, rất thoải mái. Cô ở chung cư cao cấp, đi xe tay ga láng coóng. Dior đặc biệt thích các túi Dior và cô có cả một bộ sưu tập các giỏ xách nhãn hiệu này. Cho nên, Dior mới được gọi là Dior. Dior thích cái tên này lắm. Thậm chí, Dior còn bảo, cô sẽ chết mất nếu một ngày nào đó không còn được gọi như vậy.

Mai không thích Dior. Mỗi lần cô đi chơi về, Mai hay đến ngửi người cô, hít hà đánh hơi. Có lần cô đi với Dior, thể là nó gầm gừ trong miệng:

“Cô lại gặp Dior à?”

“Có sao đâu! Mà sao mày biết?”

Mai nguẩy đuôi:

“Khó gì chuyện ấy! Cứ ngửi thấy cái mùi nồng nặc hỗn tạp của hàng tá son phấn, nước hoa thì biết!” – Mai vừa đưa chân lên liếm láp vừa lắc đầu – “Người gì mà ngay đến cái mùi người của mình cũng chẳng có! Vậy bảo làm sao tin cậy cô ta được?! Cô chơi với cô ta riết cũng giống cô ta mất thôi.” Cô nghe Mai nói vậy thì la oai oái: “Trời ạ, mày nghĩ gì vậy hả Mai? Điên khùng thật! Tao nằm mơ cũng không được như Dior nữa là!!!” Mai nhìn cô, khinh khỉnh cong đuôi bỏ ra ngoài.

Một ngày, Mai đột ngột mất tăm mất dạng. Cô cuống lên đi tìm khắp nơi trong thành phố phía Tây, thậm chí còn lên phát thanh, đăng báo. Được cái Mai còn mặt nên đăng lên báo cũng dễ dàng nhận diện. Cô đem tờ báo đi khắp nơi, người ta không trả lời câu hỏi của cô mà chỉ toàn ngạc nhiên hỏi lại, sao trên đời vẫn còn một nhân vật có mặt thế nhỉ? Tưởng đã bị tận diệt rồi chứ? Cô không biết phải đáp sao, đành ậm ừ cho qua. Vậy là việc tìm kiếm coi như đi tong. Thấy cô buồn, Dior lôi cô vào quán bar giải sầu (theo cách nói của Dior), kéo cả Seiko theo.

Ở sàn nhày, cả ba quay cuồng dưới ánh sáng đỏ xanh chớp nháy liên tục và tiếng nhạc rền rĩ muốn đinh tai nhức óc. Dior nhảy như điên, cứ thế ngoày tít mái đầu vàng như rơm rồi hét vào tai cô cả chục lần: “Woa! Sống vậy mới ra sống chứ! Tôi yêu cuộc đời này đến chết đi được!” Nhìn sang bên cạnh, Seiko cũng đang khuỳnh khoàng trong vũ điệu của một con rô bốt được lập trình đến từng cử động. Cảnh tượng ấy khiến cô bất chợt cười nắc nẻ, gập người lại vẫn không hết cười. Trong bóng tối, nước mắt chảy ướt đầm khuôn mặt thành từng vệt lấp loáng mỗi khi ánh đèn rọi vào.

Cô về nhà lúc đồng hồ chỉ mười hai giờ đêm. Seiko đưa cô đến trước cửa rồi vội vã quay về để kịp hoàn thành một kế hoạch nào đó, ngày mai nộp lên cấp trên còn nhận tiền thưởng. Trước khi lên xe, Seiko hôn vội lên má cô, vui vẻ bảo, cưng chuẩn bị sẵn vali đi, chúng ta sẽ đến thiên đàng của chúng ta. Ngày mai là cuối tháng, nhưng anh chắc chắn kiếm đủ một ngàn đô mà! Nhìn cái bóng tất tả của Seiko dưới ánh đèn khuya vàng đục, cô mỉm cười thầm hỏi, không biết Seiko có bán cái đồng hồ yêu quí của mình để bù cho đủ một ngàn đô la không nhỉ?!

Vào nhà, cô không kịp tắm rửa gì hết mà vội vàng quẳng mình xuống nệm đánh phịch làm bao nhiêu bụi vải từ đống chăn gối cũ kĩ bay lên lả tả. Trong không khí hanh khô, mùi mốc từ đâu xông lên, xộc thẳng vào mũi. Trong lòng cô bỗng dậy lên ước muốn tha thiết được như Dior, cô sẽ lập tức rời khỏi ngôi nhà này, thành phố này. Cô trở mình, quờ tay sang bên cạnh, chỗ nằm của con Mai vẫn trống không, lạnh lẽo như chưa hề tồn tại một con mèo như vậy trên thế gian này. Hốt hoảng, cô ngồi bật dậy, cầm gương lên soi. Cô chậm rãi sờ từng đường nét trên khuôn mặt vốn của mình. Dưới ánh sáng lờ mờ từ bên ngoài hắt vào, cô nhận ra, cô đã chẳng còn mặt. Sững sờ, cô cố gắng cắn móng tay đến bật máu.

HẾT.


Doc truyen online mien phi moi nhat hay nhat - KenhTruyen.Hexat.Com

Copyright © 2018 KenhTruyen.Hexat.Com - All rights reserved.
Wapsite Đọc Truyện online được tổng hợp từ nhiều nguồn trên internet.
Được phát triển bởi Trái Tim Băng™ và tất cả các thành viên.